Tác giả tác phẩm: Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu – Ngữ văn 11
I. Tác giả Chương Thâu
– Chương Thâu
II. Tìm hiểu tác phẩm Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu
1. Thể loại
Truyện thơ
2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác
– Thị Kính nuôi con Thị Mầu trích Quan Âm Thị Kính, NXB Khoa học Xã Hội năm 2000.
3. Phương thức biểu đạt
Văn bản Thị Kính nuôi con cho Thị Mầucó phương thức biểu đạt là tự sự & trữ tình.
4. Tóm tắt văn bản Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu
“Thị Kính nuôi con Thị Mầu” là một trong những đoạn trích trong tác phẩm “Quan Âm Thị Kính”. Tác phẩm này phản ánh sự bất công với phụ nữ trong xã hội phong kiến, và điển hình ở nhân vật Thị Kính. Thị Kính là một cô gái xinh đẹp, xuất thân trong gia đình nghèo khó và chỉ biết nhún nhường sống trong nhà chồng Thiện Sỹ – con của phú ông. Vì hiểu nhầm không đáng có mà Thị Kính định quyên sinh, nhưng nghĩ cha mẹ ở nhà không ai chăm sóc, Thị Kính quyết cạo đầu đi tu, giải làm chú tiểu, đổi tên thành Kính Tâm. Bấy giờ trong làng có nàng Thị Mầu lẳng lơ đem lòng mến chú tiểu Kính Tâm nhưng nhận lại được sự thờ ơ nên nàng ta đem lòng sinh ghét. Vì bản tính phóng khoáng quá mức, ngàn ta lỡ có chửa với đầy tớ, vì nỗi bực trong lòng, nàng bèn đổ vỏ cho Kính Tâm. Đường đường là nhà sư trân chính, nhận đứa trẻ nuôi nấng thì chẳng rằng là thú nhận nôi oan ức này, nhưng bỏ rơi một sinh mệnh cũng “chẳng đành”, nên Kính Tâm nhận về nuôi dưỡng mặc cho lời đàm tiếu, dị nghị thì “phúc vẫn là làm phúc”. Quả thật quá đỗi xót thương cho phận người con gái đã bị dồn nén đến đường cùng nhưng vẫn chọn hi sinh vì người khác. Chính tấm lòng từ bi đó đã cảm hóa được người thầy của Kính Tâm. Kinh Tâm hết mực yêu thương con đứa con “khác máu” đó như “giọt máu tình thâm”. Chịu cảnh “mẹ vò nuôi con nhện” nhưng Kính Tâm vẫn cầu mong cho con lớn lên được trưởng thành, cơ đồ sáng lạng. Qua đoạn trích, ta thấy được giá trị nhân đạo sâu sắc mà tác giả muốn gửi gắm rằng dù có là ai, có khốn khó đến nhường nào, thì cái tấm lòng từ bi sẽ quật ngã được cảnh ngộ đó.
5. Bố cục bài Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu
Gồm 2 phần
+ Phần 1: Từ đầu đến “Xót tình măng sữa nâng vào trong tay
” – Thị Kính bị đổ oan và nuôi con cho Thị Mầu
+ Phần 2: Còn lại – Tình yêu mà Thị Kính dành cho đứa trẻ.
6. Giá trị nội dung
– Văn bản kể về việc Thị Mầu mang thai, bị làng bắt phạt nên khai liều là của Kính Tâm. Thị Mầu sinh con mang tới chùa đổ vạ, Thị Kính suốt 3 năm trời ròng rã xin sữa nuôi con, cuối cùng thân tàn lực kiệt, viết thư để lại cho cha mẹ rồi chết đi. Cuối cùng mọi người mới biết Kính Tâm là nữ, bèn lập đàn giải oan cho nàng.
7. Giá trị nghệ thuật
– Nghệ thuật sáng tác của tác phẩm Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu thành công khi khắc họa nhân vật, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố tự sự, trữ tình, cách kể dễ hiểu dễ đi sâu vào tâm lí con người, giúp câu chuyện trở nên dễ nghe, dễ đọc và dễ hiểu hơn khi đến tay của các độc giả.
III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu
1. Thị Kính bị đổ oan và nuôi con cho Thị Mầu
– Gia cảnh của Thị Kính:
+ Xuất thân là con gái nhà nghèo, lấy chồng tên Thiện Sỹ – con trai phú ông.
+ Sau một lần hiểu lầm rằng Thị Kính muốn sát gại chồng nên cha mẹ của Thiện Sỹ là Sùng ông, Sùng bà tức giận đuổi Thị Kính về quê. Ôm nỗi hận muốn quyên sinh nhưng thương cha mẹ già không ai báo hiếu nên cải trang nam nhi và đi tu ở chùa Vân Tự, đổi tên là Kính Tâm.
– Lí do bị Thị Mầu đổi oan:
Làng có nàng Thị Mầu vốn tính lẳng lơ, dám say mê cả phật tử là Kính Tâm. Nàng ta lỡ dỡ có chửa với đầy tớ. Khi bị hào lí trong làng tra hỏi, nàng ta đổi tội ngay cho Kính Tâm. Cứ thế người phụ nữ tội nghiệp lại phải chịu nỗi oan ức lần thứ hai. Sau khi sinh con, Thị Mầu đem “trả” cho Kính Tâm:
Tiểu đương tụng niệm khấn nguyền
Bỗng nghe tiếng trẻ tá lên giật mình
Ngoảnh đi thị dạ chẳng đành
Nhận ra thì hóa là tình chẳng ngay.
Gớm thay mặt dạn mày dày
Trân trân rằng giá con đây mà về.
+ Vốn là chú tiểu đi tu ngày đêm nghe tiếng “tụng niệm khấn nguyền” mà nay giật mình nghe tiếng khóc “tá” của trẻ em.
+ Là nhà sư chân chính nay vướng phải nghiệt duyệt = > Kính Tâm khó sử:
Bỏ rơi đứa bé thì “chẳng đành”
Nhận đứa bé về chăm sóc thì hóa “tình chẳng ngay”.
= > Kính Tâm quyết định nhận nuôi đứa trẻ:
Cơ thiển kể đã khắt khe
Khéo xui, ra đứa làm rê riếu mình
Nhưng mà trong dạ hiếu sinh
Phúc làm thì phúc, dơ thì đành dơ
Cá trong chậu nước sởn sơ
Thì nay chẳng cứu, còn chờ khi nao
Chẳng sinh cũng chịu cù lao
Xót tình măng sữa nâng vào trong tay
= > Kính Tâm là người hiền lành, nhân hậu: từ cõi “cơ thiền” nay cũng trở nên khắt khe, dậy sóng.
= > Vốn để tâm thanh tịnh nay phải chịu oan Thị Mầu “khéo xui ra đứa” làm tổn hại đến thanh danh của mình. Thế nhưng vì quý trọng sinh mệnh “trong dạ hiếu sinh” mà Kính Tâm gạt bỏ đi hết lời gièm pha, cho dù người đời có bàn tán ra sao thì “phúc vẫn là làm phúc”.
2. Tình yêu mà Thị Kính dành cho đứa trẻ
– Việc Kính Tâm nhận nuôi đứa trẻ khiến sư thầy sinh nghi:
Bữa sau sư phụ mới hay
Dạy rằng: “Như thế thì thầy cũng nghi
Phỏng như khác máu ru thì
Con ai mặc nấy can gì đa mang
+ Sư phụ hiểu và xót thương cho thân phận Kính Tâm, nhưng là người không rõ sự tình, là đứa con khác máu không phải do mình sinh ra thì hà cơ gì Kính Tâm lại nhận nuôi để làm nên nỗi oan ức tủi hổ.
= > Sau cùng sư phụ cũng bị cảm hóa bởi nghĩa tử cao đẹp, tấm lòng từ bi của Kính Tâm:
Bạch rằng: Muôn đội thầy thương
Xưa nay thầy dạy mọi đường nhỏ to
Dẫu xây chín đợt phù đồ
Sao bằng làm phúc cứu cho một người
…
Sư nghe thưa lại mấy điều,
Khen rằng: “Cũng có ít nhiều từ tâm”
Rõ là nước lã mà nhầm
Cũng đem giọt máu tình thâm hòa vào
+ dù cho có xây chín tháp “phù đồ” cũng không thể bằng cứu một sinh mệnh.
= > Từ tình người nhân hậu như “nước lã”, Kính Tâm đã dâng trọn tấm lòng để hòa vào “giọt máu tình thâm”, Kính Tâm coi đứa bé như là con đẻ của mình, hết mực yêu thương, nuôi nấng
Mẹ vò thì sữa khát khao
Lo nuôi con nhện làm sao cho tuyền
Nâng niu xiết nỗi truân chuyên
Nhai cơm mướm sữa để nên con người
Đến dân ai cũng chê cười
Tiểu kia tu có trót đời được đâu
Biết chăng một đứa thương đâu
Mình là hai với Thị Mầu là ba
+ “Mẹ vò” – dẫu biết không phải con mình nhưng Kính Tâm vẫn lo cho đứa trẻ không thiếu bữa nào.
+ Ngày đêm chăm ẵm, nâng niu, xin sữa nuôi con, mong con khôn lớn.
= > Nhưng sự thật không được phơi bày.
= > Miệng đời tàn ác, đồn thổi Kính Tâm không thể tu thành chính quả.
Ra công nuôi bộ thực là
Nhưng buồn có trẻ hóa ra đỡ buồn
…
+ Tình yêu, niềm hạnh phúc khi ngày ngày nghe tiếng trẻ thơ tíu tít bao nỗi lo âu, trăn trở hóa hư vô.
Khi trống tàn, lúc chuông dồn
Tiếng chuông lẫn tiếng ru con tối ngày
+ Không gian tĩnh mịnh nơi chùa thiêng xen lẫn cả “tiếng ru”
= > Cảm nhận được tình mẫu tử không chỉ tồn tại ở chính cha mẹ sinh ra mình mà còn hòa vào nhau khi gặp tấm lòng từ bi giáng thế.
– Kính tâm làm tròn đạo làm cha, nuôi nấng con với đầy đủ điều kiện, có cả “lọ phương hoạt ấu”, “lọ thầy bảo anh”, hai thứ đó tượng trưng cho vị thầy thuốc bảo vệ sức khỏe của trẻ thơ.
Phù trì như thổi ra ngay
Lọ phương hoạt ấu lọ thầy bảo anh
Bùa thiêng đã sẵn kim kinh
Ma vương kia cũng phải kiêng họ là.
– Rồi thấm thoắt ba năm trôi đi, đứa bé đã lớn giống với “cha nuôi” của mình – Kính Tâm Giả trai đi tu trốn chùa Thanh Tịnh.
– Kính Tâm hi vọng con cái trưởng thành và có công danh rạng rỡ:
Thoi đưa tháng trọn qua ngày
Mấy thu mà đã lên ba tuổi rồi
Con mày mà giống cha nuôi,
Hình dung ý tứ khác nào bán sinh.
Mai ngày đến lúc trường thành,
Cơ cầu dễ rạng tiền trình hơn xưa.
= > Kính Tâm cũng như bao người cha mẹ khác mong ước con mình mai này trưởng thành “cơ cầu” giỏi giang để nối nghiệp ông cha, mong cho “tiến trình” tương lai dẫn bước con càng thành công rạng rỡ hơn lớp ông cha con bây giờ.