Tác giả tác phẩm: Tú Uyên gặp Giáng Kiều – Ngữ văn 11
I. Tác giả Vũ Quốc Trân
– Vũ Quốc Trân (? – ?)
– Quê: người làng Đan Loan, huyện Bình Giang, tỉnh (Hải Dương); nhưng sống ở phường Đại Lợi (một phần phố Hàng Đào thuộc Hà Nội ngày nay) vào khoảng giữa thế kỷ 19.
II. Tìm hiểu tác phẩm Tú Uyên gặp Giáng Kiều
1. Thể loại
Truyện thơ Nôm
2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác
– Bích Câu kỳ ngộ nguyên là một tiểu thuyết bằng chữ Hán, trích Tiễn dặn người yêu – Xống chụ xon xao, NXB Văn học, Hà Nội, năm 1973.
3. Phương thức biểu đạt
Bài thơ Tú Uyên gặp Giáng Kiều có phương thức biểu đạt là biểu cảm & tự sự.
4. Tóm tắt bài thơ Tú Uyên gặp Giáng Kiều
Tú Uyên gặp Giáng Kiều trong đoạn trích “Tú Uyên gặp Giáng Kiều” của tác phẩm “Bích Câu kì ngộ”. Chàng thư sinh nghèo Trần Tú Uyên đem lòng tương tư nàng tiên nữ Giáng Kiều sau khi gặp được nàng trong một lần đi xem hội xuân. Tình yêu đó khiến chàng ôm mộng ngày đêm nhung nhớ và sớm khuya ôm mộng đến sinh bệnh, “chồn” cả người. Một hôm, chàng trở về nhà và thấy cơm canh đã bày sẵn đầy đủ như “bát trân” và bắt gặp một người con gái trong tranh bước ra. Từ đó, chàng và Giáng Kiều đồng vợ đồng chồng chung sống hạnh phúc, vốn có duyên trời định “ba sinh” với nhau. Đoạn trích này thể hiện tình yêu chân thành, sắc sảo bằng những câu văn trữ tình, đậm nét dân tộc và phản ánh mong muốn về một cuộc sống tự do, không khó khăn, loạn lạc.
5. Bố cục bài Tú Uyên gặp Giáng Kiều
Gồm 2 phần
+ Phần 1: Từ đầu đến “xiết bao là tình” – Cuộc gặp gỡ của Tú Uyên và Giáng Kiều.
+ Phần 2: Còn lại – Kết duyên vợ chồng và khung cảnh ngày nên đôi.
6. Giá trị nội dung
– Nói về câu chuyện chàng trai Tú uyên phải lòng cô tiên Giáng Kiều và hành trình tìm đến hạnh phúc của họ.
7. Giá trị nghệ thuật
– Ẩm hưởng dân tộc rõ nét, bút pháp nghệ thuật tài tình trong xây dựng hình tượng nhân vật khi kết hợp tả cảnh với tả tình.
III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Tú Uyên gặp Giáng Kiều
1. Cuộc gặp gỡ của Tú Uyên và Giáng Kiều
– Câu thơ đầu cho người đọc cảm nhận được gia cảnh nghèo khó của chàng thư sinh Tú Uyên.
Mưa hoa khép cánh song hồ
+ Cha mẹ mất sớm, chàng một mình lủi thủi với căn nhà giữa hồ Bích Cầu.
+ Ngày đêm miệt mài đèn sách.
– Gặp gỡ dịp dạo chơi xuân, tình cờ gặp cô gái xinh đẹp như tiên nữ = > ôm mộng ngày đêm:
Sớm khuya với bức họa đồ làm đôi
Mâm chung một, đũa thêm hai
Thơ trao dưới nguyệt, rượu mời trước hoa
…
Cho hay tình cũng là chung
Khách tiên chưa dễ qua vòng ái ân!
+ Nỗi nhớ của Tú Uyên như “sông Tương mơ hình” (sông Tương là nơi hai bà Nga Hoàng và Nữ Anh đã khóc thương chồng)
+ Tú Uyên mua được bức tranh nàng thiếu nữ với nét đẹp tựa như người chàng đang nhớ thương = > mua về treo để sớm khuya ôm mộng.
– Chàng nghĩ về người thiếu nữ ấy đến nỗi ngỡ người trong tranh “phát phu”, tưởng tượng người thiếu nữ trong tranh là người thật:
“Có khi hình ảnh cũng là phát phu”
+ Chàng ôm nhớ nhung đến “chồn” cả người – ốm yếu không còn cử động được.
+ Mong muốn “bẻ khóa cung trăng” để thấy được “chị Hằng” mà nàng ngày đêm mộng mị.
= > Nỗi niềm tương tư, tình cảm sâu nặng.
– Khi Tú Uyên bận công việc ở trường trở về muộn đã thấy cơm nước dọn sẵn
= > Chàng quyết định rình xem là ai.
Một khi ra việc trường văn
Trở về đã thấy bát trân sẵn sàng
So xem phong vị khác thường
Mùi hoa sực nức, mùi hương ngọt ngào
Bếp trời sẵn đó hay sao?
Của đâu thấy lạ, lòng nào chẳng nghi!
+ Cơm canh tiếp đón không chỉ là cơm canh bình thường mà đầy đủ, sung túc như “bát trân”.
= > Quyết định rình thì thấy một nàng thiếu nữ bước ra từ trong tranh.
Sáng mai cứ buổi ra đi
Liệu chừng thoắt trở lại về thử coi
Trong tranh sao có bóng người vào ra?
…
Nàng rằng: “Bồ liễu phận thường
Vì mang má phấn nên vương tơ điều
Vốn xưa thiếp khách thanh tiêu
Tiên Thù là hiệu, Giáng Kiều là tên
= > Thỏa mỗi nhớ mong khi gặp được người trong mộng, mắt chàng rưng rưng “bên mừng bên lệ” thổ lộ tình cảm bấy lâu nay với thiếu nữ.
2. Kết duyên vợ chồng
– Khi được chàng thổ lộ, nàng tiên nữ e thẹn, ngại ngùng tự xưng là tiên nữ Giáng Kiều, vốn là người cõi tiên, vì có tiền duyên với chàng nên hạ phàm xuống đất:
Ba sinh đã nặng vì duyên
Đem thân liễu yếu kết nguyền đào thơ
Nhân duyên đã định từ xưa
Tơ trăng xe đến bây giờ mới thân
…
Đã rằng: tác hợp duyên trời
Làm chi cho bận lòng người lắm nao!
+ “Ba sinh” – mối nhân duyên tiền kiếp = > mối nhân duyên vợ chồng đến giờ mới được “tơ trăng” nhờ ân đức của “tiên quân” nên nàng ngỏ ý nguyện một lòng “tấm son” cùng chàng se mối nhân duyên này:
Nàng rằng: “Xin quyết gieo cầu”
Tấm son thề với trên đầu xanh xanh
= > Từ đó 2 vợ chồng chung sống hạnh phúc, thấu hiểu nhau.
+ Chim yến oanh bay theo từng đàn chúc phúc cho đôi trai tài gái sắc.
+ Trăng thanh, hoa nở mừng cho đôi uyên ương.
+ Nàng hóa phép ra lâu đài nguy nga, lộng lẫy có đủ người hậu kẻ hạ.
+ Thiên thời địa lợi nhân hòa chung đôi với vợ chồng.
+ “Vũ y”, “nghê thường” – quần áo, xiêm y lả lướt, thiết tha.
IV. Nội dung Tú Uyên gặp Giáng Kiều
Tú Uyên gặp Giáng Kiều
(trích Bích Câu kì ngộ)
Vũ Quốc Trân
Mưa hoa khép cánh song hồ
Sớm khuya với bức họa đồ làm đôi tạo
Mâm chung một, đũa thêm hai
Thơ trao dưới nguyệt, rượu mời trước hoa
Tưởng gần thôi lại nghĩ xa
Có khi hình ảnh cũng là phát phủ
Em trời vừa tiết trăng thu
Ngàn suong rắc bạc, lá khô rụng vàng
Chiều thu như gọi tấm thưong
Lòng người trông xuống sông Tương mơ hình
Kề bên năn nỉ bày tình
Nỗi nhà thuở trước, nỗi mình ngày xưa
Từ phen giáp mặt đến giờ
Những là ngày tưởng đêm mơ đã chồn
Ấy ai điểm phấn tô son
Để ai ruột héo, gan mòn vì ai?
Buồng đào nửa bước chẳng rời
Nghìn vàng đổi được trận cười ấy chăng?
Rày xin bẻ khoá cung trăng
Vén mây mở mặt chị Hằng, chút nào!
Chọt trông mấp máy miệng đào
Mặt hoa hớn hở dường chào chúa Đông
Cho hay tình cũng là chung
Khách tiên chưa dễ qua vòng ái ân!
Một khi ra việc trường văn
Trở về đã thấy bát trận sẵn sàng
So xem phong vị khác thường
Mùi hoa sực nức, mùi hương ngạt ngào
Bếp trời sẵn đó hay sao?
Của đâu thấy lạ, lòng nào chẳng nghi!
Sáng mai cứ buổi ra đi
Liệu chừng thoắt trở lại về thử coi
Bỗng đâu thấy sự lạ đời
Trong tranh sao có bóng người vào ra?
Nhân nhân mày liễu mặt hoa
Này người khi trước đâu mà đến đây?
Nàng đương trang điểm nào hay
Cửa ngoài sẽ hé cánh mây bước vào
Vội vàng đánh tiếng ra chào
Bên mừng bên lệ, xiết bao là tình
Rằng: “Bấy lâu một chữ tình
Gặp đây xin tỏ tính danh cho tường?”
Nàng rằng: “Bồ liễu phận thường
Vì mang má phấn nên vương tơ điều
Vốn xưa thiếp khách thanh tiêu
Tiên Thù là hiệu, Giáng Kiều là tên
Ba sinh đã nặng vì duyên
Đem thân liễu yếu kết nguyền đào thơ
Nhân duyên đã định từ xưa
Tơ trăng xe đến bây giờ mới thân
Cũng là nhờ đức tiên quân
Đoá hoa biết mặt chúa xuân từ rày”
Sinh rằng: “Trong bấy lâu nay
Nhắp sầu gối muộn có ngày nào nguôi
Đã rằng: tác hợp duyên trời
Làm chỉ cho bận lòng người lắm nao”
Nàng rằng: “Xin quyết gieo cầu
Tấm son thề với trên đầu xanh xanh
Dám đâu học thói yến oanh
Mặn tình trăng gió, nhạt tình lửa hương
Gieo thoi trước đã dở dang
Sao nên nát đá phai vàng như chơi
Mái Tây còn để tiếng đời
Treo gương kim cổ cho người soi chung
Lạ gì hoa với gió đông
Tiếc hương vả cũng nể lòng chim xanh
Một mai mưa gió bất tình
Vóc tàn nên để yến oanh hững hờ
Nghĩ trong thân phận yếu thơ
Làm chi để tiếng sờ sờ lại sau!”
Nói thôi rút chiếc trâm đầu
Biến hình liền thấy đôi hầu theo ra
Tưng bừng sắm sửa tiệc hoa
Bình trầm đưa khói, chén hà đậm hương
Giọng tình sánh với quỳnh tương
Giả say sinh mới toan đường lần khân
Thưa rằng: “Túc trái tiền nhân
Không dưng dễ xuống cõi trần làm chi
Song còn mấy bạn tương tri
Bấy lâu chưa có chút gì là đâu
Trước xin từ biệt cùng nhau
Chữ duyên này trở về sau còn dài”
Nghe lời nói cũng êm tại
Chiều lòng chi nỡ ép nài mưa mây
Trước sân mừng cuộc tỉnh say
Tiếng vui đãi nguyệt, tiệc bày đối hoa
Bóng mây bỗng kéo quanh nhà
Thảo am thoắt đã đổi ra lâu đài
Tường quang sáng một góc trời
Nhởn nhơ áo, mũ, xiêm, hài, biết bao!
Người yểu điệu, khách thanh tạo
Mỗi người một vẻ, ai nào kém ai
Lả loi bên nói bên cười
Bên mừng cố hữu, bên mời tân lang
Đong đưa khoe thắm đua vàng
Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha.
(Trích Bích Câu kì ngộ, Thi Nham Đinh Gia Thuyết đính chính và chú thích, Cổ văn Việt Nam, 1952, tr. 36 – 42)