Giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 7 Bài 3: Cội nguồn yêu thương
Đọc hiểu và thực hành Tiếng Việt trang 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 28, 30, 31
Bài tập 8. trang 27, 28, 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1: Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:
Tôi muốn kể với các em về thầy giáo dạy vẽ của tôi. Thầy dạy chúng tôi cách
đây mười bảy năm, khi đó chúng tôi mới học lớp Năm mà thầy thì mái tóc đã bạc phơ…
[…] Chẳng hiểu vì thầy không có tài hay không gặp may, tuy thầy rất yêu hội
hoạ, dành hết sức lực và tiền bạc cho nó. Vợ con thầy đều đã mất từ lâu, thầy bảo: “Giờ đây, nguồn vui của thầy chỉ là công việc và các em học sinh”. Chúng tôi đều rất quý và thương thầy. Có lần, thầy đến lớp, vẻ nghiêm trang, xúc động, thầy nói với chúng tôi:
– Ở triển lãm mĩ thuật thành phố người ta có bày một cái tranh của tôi…
Thầy mỉm cười rụt rè, khẽ nói thêm: “Các em đến xem thử…”
Chiều hôm ấy, mấy đứa chúng tôi trong đó có Châu và Hiển – rủ nhau đến phòng triển lãm. Trong gian phòng chan hoà ánh sáng, bức tranh của thầy Bản treo ở một góc. So với những bức tranh to lớn trang trọng khác, bức tranh của thầy thật bé nhỏ, trong một chiếc khung cũ. Bởi tranh vẽ rất cẩn thận một lọ hoa cúc, mấy quả cam, những cánh hoa vàng rơi trên mặt bàn… Mọi người đi lướt qua, chẳng ai để ý tới bức tranh của thầy. Chúng tôi ngồi xuống cạnh bàn ghi cảm tưởng của người xem: chẳng thấy ý kiến nào khen ngợi hoặc nhắc đến bức tĩnh vật của thầy giáo chúng tôi. Lúc ấy, chúng tôi thấy thầy Bản cũng đến, thầy đi lại trong phòng triển lãm, nhìn người xem rồi lại nhìn về cái tranh của mình, bồn chồn, hồi hộp. Rồi sau cảm thấy đứng mãi ở đấy không tiện, thầy lại lóc cóc ra lấy xe đạp, đạp đi.
Càng thương thầy, chúng tôi càng giận những người xem vô cùng. Nảy ra một ý, chúng tôi bàn khẽ với nhau, rồi mở quyển sổ ghi cảm tưởng, chúng tôi thay nhau viết:
“Trong phòng triển lãm này, chúng tôi rất thích bức tranh của hoạ sĩ Nguyễn
Thừa Bản!”
“Bức tranh tĩnh vật của hoạ sĩ Nguyễn Thừa Bản rất đẹp. Hoạ sĩ là một người
có tài năng và cần cù lao động. Kính chúc hoạ sĩ mạnh khoẻ…”
Rồi chúng tôi kí những cái tên giả dưới các ý kiến đó. Ngoài mấy đứa chúng
tôi, không ai biết việc này.
Vài hôm sau, thầy Bản đến lớp. Bối rối vì cảm động, thầy báo tin:
– Các em ạ… bức tranh ở triển lãm của tôi… cũng được một số người thích…
họ có ghi cảm tưởng… Ban tổ chức có đưa cho tôi đọc… tôi có ghi lại…
Thầy húng hắng ho rồi nói thêm vẻ ân hận:
– Bức tranh ấy tôi vẽ chưa được vừa ý… Nếu vẽ lại, tôi sẽ sửa chữa nhiều…
Thương thầy quá, chúng tôi suýt oà lên khóc. [… ]
Có lẽ đến phút cuối cuộc đời, thầy cũng không biết rằng: chính chúng tôi – những học trò nhỏ của thầy – đã viết vào quyển sổ cảm tưởng trong kì triển lãm ấy. Bây giờ thây Bản không còn nữa!
Tối ấy, ngồi với nhau, chúng tôi nhắc nhiều và nhớ nhiều đến thầy…
“Thưa thầy giáo dạy vẽ kính yêu!
Viết những dòng này, chúng em muốn xin thầy tha lỗi cho chúng em, và muốn một lần nữa được thưa với thầy rằng: chúng em biết ơn thầy, mãi mãi biết ơn thầy…”
(Xuân Quỳnh, Thầy giáo dạy vẽ của tôi, Trần Hoài Dương tuyển chọn,
Tuyển tập truyện ngắn hay Việt Nam dành cho thiếu nhi, tập 5, Sđd, tr. 180 – 182)
Câu 1 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1: Bức tranh của thầy Bản trong phòng triển lãm được miêu tả như thế nào?
Trả lời:
Bức tranh của thầy Bản trong phòng triển lãm được miêu tả : Trong gian phòng chan hoà ánh sáng, bức tranh của thầy Bản treo ở một góc. So với những bức tranh to lớn trang trọng khác, bức tranh của thầy thật bé nhỏ, trong một chiếc khung cũ. Bởi tranh vẽ rất cẩn thận một lọ hoa cúc, mấy quả cam, những cánh hoa vàng rơi trên mặt bàn…
Câu 2 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1: Tại sao các học trò của thầy Bản lại ghi cảm tưởng về bức tranh của thầy?
Trả lời:
– Học trò của thầy Bản thấy chẳng ai để ý tới bức tranh của thầy, chẳng thấy ý kiến nào khen ngợi hoặc nhắc đến bức tĩnh vật của thầy trong sổ ghi cảm tưởng.
– Các em cảm nhận được sự bồn chồn, hồi hộp của thầy trong phòng triển lãm và rất thương thầy.
Câu 3 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1: Những lời nói của thầy Bản với học trò về bức tranh của mình cho em cảm nhận về nhân vật như thế nào?
Trả lời:
Qua những lời nói của thầy Bản với học trò về bức tranh của mình, có thể thấy: Thầy rất yêu hội hoạ, xúc động khi đọc những lời ghi cảm tưởng của người xem; thầy khiêm nhường, cần cù, nghiêm túc trong công việc.
Câu 4 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1: Tại sao nhân vật “tôi” và các bạn lại muốn “xin thầy tha lỗi”?
Trả lời:
Nhân vật “tôi” và các bạn lại muốn “xin thầy tha lỗi” vì Có lẽ đến phút cuối cuộc đời, thầy cũng không biết rằng: chính chúng tôi – những học trò nhỏ của thầy – đã viết vào quyển số cảm tưởng trong kì triển lãm ấy. Bây giờ thầy Bản không còn nữa!
Câu 5 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1: Em có đồng tình với hành động ghi cảm tưởng và kí những cái tên giả của nhân vật “tôi” và các bạn trong phòng triển lãm không? Vì sao?
Trả lời:
Em bày tỏ thái độ đồng tình hoặc không đồng tình với hành động ghi cảm tưởng và kí những cái tên giả của nhân vật “tôi” và các bạn. Em cần lí giải cho thái độ, quan điểm của mình. Ví dụ: Em đồng tình vì đây là hành động hồn nhiên, trẻ con của các bạn nhỏ muốn khích lệ thầy do quá yêu quý và thương thầy. Có thể coi đây là “lời nói dối vô hại“ Tuy vậy, em cũng có thể không đồng tình vì xét cho cùng, việc viết cảm tưởng và kí tên giả là việc làm không được khuyến khích.
Câu 6 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1: Nêu một bài học em rút ra được từ câu chuyện.
Trả lời:
Bài học về tình cảm yêu quý, trân trọng, biết ơn thầy cô; sự khiêm nhường, nghiêm túc trong công việc;…
Câu 7 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1: So sánh các cặp câu dưới đây và nhận xét về tác dụng của việc mở rộng thành phần trạng ngữ, vị ngữ của câu bằng cụm từ.
a.
– Trong gian phòng, bức tranh của thầy Bản treo ở một góc.
– Trong gian phòng chan hoà ánh sáng, bức tranh của thầy Bản treo ở một góc.
b.
– Bức tranh tĩnh vật của hoạ sĩ Nguyễn Thừa Bản đẹp.
– Bức tranh tĩnh vật của hoạ sĩ Nguyễn Thừa Bản rất đẹp.
Trả lời:
a. trạng ngữ trong câu thứ hai miêu tả rõ hơn đặc điểm của gian phòng (chan hoà ánh sáng).
b. vị ngữ trong câu thứ hai nhấn mạnh hơn về đặc điểm (rất đẹp) Bức tranh tĩnh vật của họa sĩ Nguyễn Thừa Bản.
Câu 8 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1: Tìm các phó từ bổ nghĩa cho động từ trong những câu sau và cho biết mỗi phó từ bổ sung ý nghĩa gì:
a. Chúng tôi đều rất quý và thương thầy.
b. Các em ạ… bức tranh ở triển lãm của tôi… cũng được một số người thích…
Trả lời:
a. rất
b. được
Câu 9 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1: Tìm các phó từ bổ nghĩa cho danh từ trong những câu sau và cho biết mỗi phó từ bổ sung ý nghĩa gì:
a. So với những bức tranh to lớn trang trọng khác, bức tranh của thầy thật bé nhỏ, trong một chiếc khung cũ.
b. Mọi người đi lướt qua, chẳng ai để ý tới bức tranh của thầy.
Trả lời:
a. Phó từ những (bức tranh): chỉ số lượng không xác định; một (chiếc khung cũ): chỉ số lượng cụ thể, xác định.
b. Phó từ mọi (người) : chỉ số lượng không xác định.
Bài tập 9. trang 30, 31 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1: Đọc văn bản Chiều dày của bức tường của Phạm Sông Hồng và trả lời các câu hỏi:
Tôi đang ở trong căn phòng cũ của mình.
Chỗ này ngày xưa tôi treo một bức tranh phong cảnh.
Bức tranh ấy đã làm tôi như được gần thiên nhiên hơn giữa các toà nhà khối hộp góc cạnh khô khan và đơn điệu.
Còn bây giờ chị treo ở đấy cái lồng bàn nhựa xanh.
Chỗ kia là chỗ của chiếc lá phong tôi mang từ Nga về với bao kỉ niệm. Rồi gió to, rồi nắng to, rồi độ ẩm lớn, tất cả đã ập tới đập vào cái lá mỏng manh ấy cho đến khi nó chỉ còn là những cái gân nhỏ xíu yếu ớt và cuối cùng tan ra, bay đi. Nhưng với tôi bao giờ chiếc lá phong vẫn cứ ở chỗ đó, ở chỗ của nó.
Còn bây giờ cái tủ đã che kín khoảng tường ấy.
Chỗ kia nữa với những dáng người buồn vui trên bức tường, có được từ những lần tôi nhìn rất lâu vào những vệt vôi vô tình và tưởng tượng ra, nay phủ lớp ve xanh.
Chẳng còn ở đấy dáng người giống dáng tôi hồi bé.
Không thấy đâu hai mái đầu đang chụm lại thì thẩm.
Cái mũi cao hếch với hàng mi rợp buồn ở góc tường kia làm tôi thẫn thờ bao
lần giờ nơi nao?
Tất cả, tất cả đều xa lạ, xa lạ quá…
…
Cuộc đến thăm căn phòng cũ đã không như tôi tưởng.
[…] Về đến nhà mình, nhìn mọi vật trong phòng, tôi bỗng nhớ tới người chủ cũ của nó. Không biết chỗ hiện nay tôi đặt giá sách người chủ cũ đã gửi gắm tình cảm gì vào đó? Bức tường ấy đã chứng kiến những gì trong phần đời của họ?
Chẳng hiểu lớp vôi quét đã phủ lên những kỉ niệm nào của người chủ trước đây?
Rồi tôi chợt giật mình nhận ra: Lớp kỉ niệm của tôi trên những bức tường sẽ luôn nằm ở giữa lớp kỉ niệm của người đến trước và người đến sau tôi.
Và những bức tường cứ dày lên cùng với những lớp kỉ niệm ấy.
(Phạm Sông Hồng, Chiều dày của bức tường, Trần Hoài Dương tuyển chọn, Tuyển tập truyện ngắn hay Việt Nam dành cho thiếu nhi, tập 3, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2016, tr. 118 – 119)
Câu 1 trang 31 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1: Câu chuyện được kể bằng lời của người kể chuyện ngôi thứ mấy?
Trả lời:
Câu chuyện được kể bằng lời của người kể chuyện ngôi thứ nhất (xưng “tôi”)
Câu 2 trang 31 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1: Căn phòng cũ của nhân vật “tôi” đã thay đổi như thế nào? Trước sự thay đổi đó, nhân vật “tôi” có cảm xúc gì?
Trả lời:
Em tìm trong phần đầu văn bản những câu văn miêu tả sự thay đổi của căn phòng cũ. Để nêu được cảm xúc của nhân vật “tôi” trước sự thay đổi của căn phòng, em cần chú ý đến các từ ngữ và câu văn như: chỗ này ngày xưa, còn bây giờ, chỗ kia, chẳng còn, không thấy; Tất cả, tất cả đều xa lạ, xa lạ quá…
→ Cảm xúc của nhân vật “tôi” có thể là buồn, tiếc nuối, ngỡ ngàng,… trước sự thay đổi của căn phòng cũ.
Câu 3 trang 31 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1: Tại sao nhân vật “tôi” chợt giật mình nhận ra lớp kỉ niệm của mình trên những bức tường sẽ luôn nằm giữa lớp kỉ niệm của người đến trước và người đến sau?
Trả lời:
Nhân vật “tôi” đã chứng kiến sự thay đổi của bức tường trong căn phòng cũ và suy nghĩ về những bức tường trong ngôi nhà mình đang ở.
Câu 4 trang 31 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1: Em hiểu thế nào về ý nghĩa nhan đề: Chiều dày của bức tường?
Trả lời:
Một số câu văn kết thúc tác phẩm:
– Rồi tôi chợt giật mình nhận ra: Lớp kỉ niệm của tôi trên những bức tường sẽ luôn nằm ở giữa lớp kỉ niệm của người đến trước và người đến sau tôi.
– Và những bức tường cứ dày lên cùng với những lớp kỉ niệm ấy.
Như vậy, chiều dày của bức tường là lớp kỉ niệm của những người đến trước, đến sau đã gắn bó với ngôi nhà.
Câu 5 trang 31 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1: Tìm một từ thuộc từ loại số từ trong văn bản trên.
Trả lời:
Ví dụ: số từ một trong câu: Chỗ này ngày xua tôi treo một bức tranh phong cảnh.
Câu 6 trang 31 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1: Câu nào sau đây có phó từ đi kèm danh từ?
a. Tôi đang ở trong căn phòng cũ của mình.
b. Còn bây giờ chị treo ở đấy cái lồng bàn nhựa xanh.
c. Chẳng còn ở đấy dáng người giống dáng tôi hồi bé.
d. Và những bức tường cứ dày lên cùng với những lớp kỉ niệm ấy.
Trả lời:
Đáp án: d. Và những bức tường cứ dày lên cùng với những lớp kỉ niệm ấy.
Câu 7 trang 31 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1: Tìm một câu trong đoạn trích có hai phó từ khác nhau và giải thích ý nghĩa của các phó từ đó.
Trả lời:
– Cuộc đến thăm căn phòng cũ đã không như tôi tưởng.
→ Phó từ đã bổ sung ý nghĩa thời gian trước hiện tại, cho biết hoàn thành một việc gì đó trước khi nói; phó từ không bổ sung ý nghĩa phủ định.
Viết trang 31, 32, 33
Bài tập 1 trang 31, 32, 33 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1: Đọc bài văn phân tích nhân vật sau đây và rút ra dàn ý cần có để viết được bài văn này:
“Dế Mèn phiêu lưu kí” là thiên đồng thoại xuất sắc nhất của Tô Hoài. Tác phẩm kể về cuộc phiêu lưu đầy hấp dẫn, thú vị, li kì của Dế Mèn qua nhiều vùng đất của các loài vật khác nhau. Nhân vật Dế Mèn đã được miêu tả rõ nét cả về ngoại hình và tính cách trong đoạn trích “Bài học đường đời đầu tiên”
Ngay phần mở đầu đoạn trích, Tô Hoài đã vẽ nên bức chân dung về một chàng dế khoẻ mạnh, cường tráng, trẻ trung, đầy sức sống. Câu chuyện được kể theo ngôi thứ nhất, qua lời của nhân vật Dế Mèn. Dế Mèn tự hào giới thiệu về mình: “Bởi tôi ăn uống điều độ và làm việc có chừng mực nên tôi chóng lớn lắm. Chẳng bao lâu, tôi đã trở thành một chàng đế thanh niên cường tráng”. Nhưng chính vì sự tự hào và tự tin thái quá đó mà Dế Mèn trở nên kiêu căng, tự phụ về vẻ đẹp và sức mạnh của mình. Dế Mèn thường xuyên cà khia, chọc ghẹo tất cả bà con trong xóm. Dế Mèn tưởng mình là tay ghê gớm, có thể sắp đứng đầu thiên hạ rồi. Nhà văn đã miêu tả khá kĩ và tinh tế hầu hết các bộ phận chính của ngoại hình Dế Mèn, tập trung làm nổi bật vẻ đẹp cường tráng, chất chứa sức sống mạnh mẽ của tuổi trẻ ở nhân vật: đôi càng mẫm bóng, những cái vuốt nhọn hoắt, cái đầu to ra và nổi từng tảng trông rất bướng, hai cái răng đen nhánh nhai ngoàm ngoạp như hai lưỡi liễm máy làm việc, sợi râu dài và uốn cong một vẻ rất đỗi hùng dũng. Vẻ cường tráng của chàng dế mới lớn còn được thể hiện trong từng điệu bộ, động tác của nhân vật: co cẳng lên, đạp phanh phách vào các ngọn cỏ; chốc chốc lại trịnh trọng và khoan thai đưa cả hai chân lên vuốt râu. Cách miêu tả nhân vật của Tô Hoài rất đặc sắc: vừa tả hình dáng bao quát, vừa tập trung làm nổi bật các chi tiết quan trọng; vừa miêu tả ngoại hình, vừa diễn tả cử chỉ, hành động. Nhà văn đã sử dụng những từ ngữ đắc địa, đặc biệt là các từ láy để khắc hoạ đậm nét đặc điểm của nhân vật một cách tinh tế và hấp dẫn.
Nếu như ở phần đầu đoạn trích, Dế Mèn được nhà văn khắc hoạ chủ yếu qua ngoại hình, hành động thì ở phần hai, đặc điểm của nhân vật được thể hiện qua mối quan hệ với một người bạn hàng xóm. Dế Mèn đã thể hiện thái độ trịch thượng, khinh thường người bạn hàng xóm yếu đuối này. Dế Mèn đặt tên cho bạn với thái độ chế giễu là “Dế Choắt” Lời lẽ, giọng điệu của Dế Mèn với Dế Choắt thể hiện sự coi thường bạn: “Ôi thôi, chú mày ơi! Chú mày có lớn mà chẳng có khôn Khi nghe Dế Choắt thỉnh cầu giúp đỡ đào một cái ngách sang bên nhà Dế Mèn phòng khi khó khăn, hoạn nạn thì Dế Mèn “hếch răng lên, xì một hơi rõ dài” và từ chối phũ phàng bằng một giọng điệu khinh thường, chế nhạo. Nhưng cũng chính nhờ người bạn hàng xóm yếu đuối ấy mà Dế Mèn đã rút ra được bài học đắt giá cho bản thân. Một buổi chiều, Dế Mèn mỉa mai, cạnh khoé, trêu chị Cốc. Sau đó, Dế Mèn chui tọt vào trong hang, bỏ mặc Dế Choắt ở ngoài. Dế Mèn đâu biết rằng trò đùa dại dột của mình đã gây ra cái chết cho Dế Choắt. Trước cái chết thảm thương của người bạn hàng xóm chỉ vì một phút nông nổi, hống hách của bản thân, Dế Mèn đã thức tỉnh, ân hận về lỗi lầm của mình và thấm thía bài học đường đời đầu tiên. Bài học ấy đã được nói lên qua lời khuyên của Dế Choắt: “… ở đời mà có thói hung hăng bậy bạ, có óc mà không biết nghĩ, sớm muộn rồi cũng mang vạ vào mình đấy “Câu nói cuối cùng của Dế Choắt đã giúp Dế Mèn hiểu ra nhiều điều, rút ra bài học sâu sắc về thái độ sống, cách ứng xử với những người xung quanh và tình bạn chân thành.
Nhân vật Dế Mèn được nhà văn khắc hoạ qua ngoại hình, cử chỉ, lời nói, suy nghĩ, hành động và mối quan hệ với các nhân vật khác. Có thể nói, Tô Hoài có sở trường miêu tả ngoại hình và hành động để từ đó thể hiện tính cách, cá tính nhân vật. Trong đoạn trích, sự thay đổi, trưởng thành trong suy nghĩ, hành động của nhân vật diễn ra hết sức chân thực, hợp lí. Bài học đường đời đầu tiên của Dế Mèn cũng chính là hành trình chiêm nghiệm để trưởng thành của những người trẻ tuổi.
“Bài học đường đời đầu tiên” đã để lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc về nhân vật Dế Mèn. Được xây dựng bằng nghệ thuật độc đáo, nhân vật Dế Mèn đã khiến bao độc giả nhỏ tuổi say mê, thích thú.
(Bài làm của học sinh)
Gợi ý dàn ý của bài văn:
1. Mở bài
Giới thiệu tác phẩm văn học và nhân vật: …………………………………..
2. Thân bài
– Đặc điểm nhân vật: …………………………………
Bằng chứng trong tác phẩm:
…………………………………………………………..
– Đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật: …………………………………………..,
– Ý nghĩa của hình tượng nhân vật: …………………………………
3. Kết bài
Nêu ấn tượng chung về nhân vật: ……………………………………
Trả lời:
1. Mở bài
Giới thiệu tác phẩm văn học và nhân vật: “Dế Mèn phiêu lưu kí” là thiên đồng thoại xuất sắc nhất của Tô Hoài. Tác phẩm kể về cuộc phiêu lưu đầy hấp dẫn, thú vị, li kì của Dế Mèn qua nhiều vùng đất của các loài vật khác nhau. Nhân vật Dế Mèn đã được miêu tả rõ nét cả về ngoại hình và tính cách trong đoạn trích “Bài học đường đời đầu tiên”
2. Thân bài
– Đặc điểm nhân vật: Tô Hoài đã vẽ nên bức chân dung về một chàng dế khoẻ mạnh, cường tráng, trẻ trung, đầy sức sống
Bằng chứng trong tác phẩm:
+ Dế Mèn tự hào giới thiệu về mình: “Bởi tôi ăn uống điều độ và làm việc có chừng mực nên tôi chóng lớn lắm. Chẳng bao lâu, tôi đã trở thành một chàng đế thanh niên cường tráng”. Nhưng chính vì sự tự hào và tự tin thái quá đó mà Dế Mèn trở nên kiêu căng, tự phụ về vẻ đẹp và sức mạnh của mình. Dế Mèn thường xuyên cà khia, chọc ghẹo tất cả bà con trong xóm. Dế Mèn tưởng mình là tay ghê gớm, có thể sắp đứng đầu thiên hạ rồi.
+ đôi càng mẫm bóng, những cái vuốt nhọn hoắt, cái đầu to ra và nổi từng tảng trông rất bướng, hai cái răng đen nhánh nhai ngoàm ngoạp như hai lưỡi liễm máy làm việc, sợi râu dài và uốn cong một vẻ rất đỗi hùng dũng. Vẻ cường tráng của chàng dế mới lớn còn được thể hiện trong từng điệu bộ, động tác của nhân vật: co cẳng lên, đạp phanh phách vào các ngọn cỏ; chốc chốc lại trịnh trọng và khoan thai đưa cả hai chân lên vuốt râu.
+ Nhân vật Dế Mèn được nhà văn khắc hoạ qua ngoại hình, cử chỉ, lời nói, suy nghĩ, hành động và mối quan hệ với các nhân vật khác.
+ …..
– Đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật:
+ Nhà văn đã miêu tả khá kĩ và tinh tế hầu hết các bộ phận chính của ngoại hình Dế Mèn, tập trung làm nổi bật vẻ đẹp cường tráng, chất chứa sức sống mạnh mẽ của tuổi trẻ ở nhân vật
+ Cách miêu tả nhân vật của Tô Hoài rất đặc sắc
+ Nhà văn đã sử dụng những từ ngữ đắc địa, đặc biệt là các từ láy để khắc hoạ đậm nét đặc điểm của nhân vật một cách tinh tế và hấp dẫn.
– Ý nghĩa của hình tượng nhân vật: Bài học đường đời đầu tiên của Dế Mèn cũng chính là hành trình chiêm nghiệm để trưởng thành của những người trẻ tuổi.
3. Kết bài
Nêu ấn tượng chung về nhân vật: “Bài học đường đời đầu tiên” đã để lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc về nhân vật Dế Mèn. Được xây dựng bằng nghệ thuật độc đáo, nhân vật Dế Mèn đã khiến bao độc giả nhỏ tuổi say mê, thích thú.
Bài tập 2 trang 33 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1: Lập dàn ý cho đề văn sau: Phân tích đặc điểm nhân vật thầy Đuy-sen trong văn bản Người thầy đầu tiên (trích, Trin-ghi-dơ Ai-tơ-ma-tốp).
Trả lời:
* Dàn ý:
– Mở bài: Giới thiệu tác phẩm văn học và nhân vật; nêu khái quát ấn tượng về nhân vật.
– Thân bài: Phân tích đặc điểm của nhân vật
+ Nhân vật đó xuất hiện như thế nào?
+ Các chi tiết miêu tả hành động của nhân vật đó.
+ Ngôn ngữ của nhân vật
+ Những cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật như thế nào?
+ Mối quan hệ của nhân vật đó với các nhân vật khác
– Kết bài: Nêu ấn tượng và đánh gái về nhân vật
* Bài mẫu tham khảo:
Bài tham khảo 1:
“Người thầy đầu tiên” là một trong những truyện ngắn xuất sắc của tác giả Tri-ghi-dơ Ai-ti-ma-tốp khi kể về người thầy giáo Đuy-sen với những đặc điểm nổi bật để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.
Hình ảnh thầy giáo Đuy-sen được kể thông qua hồi ức của bà viện sĩ An-tư-nai Xu-lai-ma-nô-ta, bà vốn là học trò trước đây của thầy Đuy-sen. Khi đến vùng núi quê hương của An-tư-nai, thầy Đuy-sen còn rất trẻ. Học vấn thấy tuy chưa được cao nhưng thầy lại có trái tim dạt dào tình nhân ái và sục sôi nhiệt huyết cách mạng. Khi An-tư-nai và các bạn nhỏ đến thăm trường với bao tò mò để “xem thử thầy giáo đang làm gì, ở đấy cũng hay” thì thấy thầy “từ trong cửa bước ra, người bê bết đất”. Thầy “mỉm cười, niềm nở” quẹt mồ hôi trên mặt và ân cần hỏi các em học sinh.
Có thể thấy Đuy-sen đúng là một người thầy vĩ đại và cử chỉ rất hồn nhiên. Thầy hiền hậu nói lên những lời ấm áp lay động đến tâm hồn tuổi thơ. Mới gặp các em nhỏ xa lạ lần đầu mà thầy đã nhìn thấy, thấu rõ cái khao khát được học hành của các em. Thầy còn “khoe” với các em về chuyện đắp lò sưởi trong mùa đông, thấy bảo tin mừng vì trường học đã làm xong và có thể học được. Thầy mời chào, khích lệ với các em nhỏ dân tộc miền núi chưa từng biết mái trường là gì bằng tình yêu thương mênh mông: “Thế nào, các em có thích học không? Các em sẽ đi học chứ?”.
Thầy Đuy-sen còn là người có tài, giàu kinh nghiệm sư phạm. Khi chỉ sau một vài phút gặp gỡ, vài câu nói nhẹ nhàng mà thầy đã chiếm lĩnh tâm hồn tuổi thơ. Thầy đã khơi gợi trong lòng các em nhỏ miền núi khao khát được đi học. Đặc biệt với An-tư-nai, thầy nhìn thấy tâm can em, thông cảm với cảnh ngộ mồ côi của em và an ủi, khen tên của em hay, bảo em chắc là ngoan lắm. Câu nói chân tình ấy cùng với hiền hậu của thầy khiến cho An-tư-nai “thấy lòng ấm hẳn lại”. Không những thế, trước khi thầy đi lấy rạ khô, lúc tiễn các em nhỏ ra về, thầy nhẹ nhàng uốn nắn, mời mọc ân cần. Các em nhỏ khi ra về ai nấy cũng đều cảm thấy yêu mền, gắn bó với thầy và ngôi trường của làng quê thân yêu.
Một điểm nữa, Đuy-sen là người thầy đầu tiên đã khai tâm khai sáng cho An-tư-nai. Thầy hiền hậu, yêu thương tuổi thơ và đã đốt cháy lên trong lòng các em ngọn lửa nhiệt tình khát vọng được đi học. Có thể thấy, thầy Đuy-sen là hình ảnh tuyệt đẹp của một ông thầy tuổi thơ.
Tóm lại, Ai-ma-tốp đã viết nên hình ảnh thầy Đuy-sen bằng tất cả sự ca ngợi và niềm yêu thương bao la. Người thầy trong truyện ngắn là người thầy của tình thương đến với tuổi thơ, đem ánh sáng cách mạng làm thay đổi mọi cuộc đời.
Bài tham khảo 2:
Đến với văn bản “Người thầy đầu tiên” của Tri-ghi-dơ Ai-ti-ma-tốp chúng ta chắc hẳn không quên được hình ảnh trung tâm là người thầy Đuy-sen. Hình ảnh người thầy được hiện lên qua lời kể, cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật An-tư-nai. Nhà văn đã dùng nhiều những chi tiết miêu tả để khắc họa chân dung nhân vật thầy Đuy-sen một cách chân thực và cụ thể nhất. Đầu tiên là thông qua ngôn ngữ đối thoại với lời trò chuyện, thuyết phục các em nhỏ đi học, đồng thời còn động viên, khích lệ An-tư-nai. Tiếp đến là những hành động của thầy điển hình như: một mình sửa sang nhà kho cũ thành lớp học; bế các em nhỏ qua suối giữa mùa đông buốt giá; kiên trì dạy chữ cho các em bất chấp hoàn cảnh thiếu thốn, khắc nghiệt; sự cô độc và cò cả ước mơ về một tương lai tươi sáng cho học trò. Cũng chính vì thế mà An-tư-nai có cảm nhận sâu sắc về lòng nhân hậu, tình yêu thương của thầy và còn ước thầy là người anh ruột của mình. Thông qua những chi tiết đó, chúng ta có thể hình dung ra thầy Đuy-sen là một người có mục đích sống cao đẹp, cương nghị, kiên nhẫn, vị tha và nhân hậu. Trong đó, nổi bật nhất là tình cảm yêu thương, hết lòng vì học trò.
Nói và Nghe trang 33
Bài tập 1 trang 33 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1: Trình bày ý kiến của em về tình yêu thương loài vật được gợi ra từ nhân vật Mên và Mon trong văn bản Bầy chim chìa vôi của Nguyễn Quang Thiều.
Trả lời:
Em có thể chuẩn bị nội dung cho bài trình bày bằng cách đặt ra và trả lời các câu hỏi sau:
– Nhân vật Mên và Mon đã yêu thương loài vật như thế nào?
– Vì sao loài vật đáng được yêu thương?
– Những bằng chứng nào cho thấy có nhiều người rất yêu thương, trân trọng loài vật nhưng vẫn còn có những người đối xử tàn nhẫn với động vật?
– Bài học em rút ra từ câu chuyện về tình yêu thương loài vật của Mên và Mon là gì?
* Bài nói mẫu tham khảo:
Bài tham khảo số 1
Sau khi đọc xong văn bản “Bầy chim chia vôi” của nhà văn Nguyễn Quang Thiều, em vô cùng ấn tượng với tình yêu thương loài vật của hai nhân vật Mên và Mon. Hai anh em đều có tình yêu thương loài vật, nhất là những chú chim chia vôi non. Vào ngày mưa to, nước sông ngập đến cánh bãi dưới, Mon lo lắng cho những chú chim chia vôi non sẽ bị chết đuối vì không biết bơi. Cậu bé còn nghĩ và đặt câu hỏi cho anh Mên là “Sao nó lại không làm tổ trên bờ hả anh?” thể hiện sự tò mò và lo lắng dành cho những chú bim bé bỏng ấy. Tình yêu thương, quan tâm và lo lắng đó còn được thể hiện ở chi tiết hai anh em lo sợ những chú chim chia vôi non bị ướt cánh và không thể bay lên trời được. Thật may thay là những chú chim ấy đã đều thành công thực hiện xong chuyến bay quan trọng nhất của đời chúng, điều đó khiến cho hai anh em, đặc biệt là Mon xúc động nghẹn ngào. Qua đó, chúng ta khẳng định được rằng Mon và Mên đều dành những tình cảm hết sức yêu thương, lo lắng cho những loài động vật nhỏ bé nhưng đầy nghị lực.
Bài tham khảo 2:
Tình yêu thương loài vật của hai anh em Mon trong văn bản “Bầy chim chia vôi” của Nguyễn Quang Thiều đã dấy lên trong lòng tôi rất nhiều cảm xúc. Đó là sự lo lắng cho sự an toàn của những chú chim non chia vôi vào ngày mưa to, nước ngập úng. Hay đó còn là sự tò mò, quan tâm đến nơi ở của những chú chim. Đặc biệt là sự hoảng sợ và xúc động nghẹn ngào khi chú chim non đã vượt lên chính mình để cất cánh bay những bước đầu tiên. Tất cả tình yêu thương, quan tâm và lo lắng đó của cả hai anh em đã khiến cho người đọc cảm động. Từ đó câu chuyện muốn nhắn nhủ đến mỗi chúng ta là cần phải dành thật nhiều tình yêu thương đến muôn loài vật.
Bài tham khảo 3:
Trong văn bản “Bầy chim chia vôi” của nhà văn thiếu nhi Nguyễn Quang Thiếu hiện lên rất nhiều chi tiết và hình ảnh nói về tình yêu thương loài vật của hai nhân vật Mon và Mên. Dù cả hai anh em có tính cách trái ngược nhau, Mên thì lạnh lùng, cáu gắt, còn Mon thì nhẹ nhàng, nhạy cảm. Nhưng họ vẫn có điểm chung là đều dành sự yêu thương, lo lắng cho những chú chim non chia vôi. Mon luôn lo lắng cho tính mạng của những chú chim, cậu bé sợ rằng chúng sẽ chết nếu như không được đưa lên bờ làm tổ. Còn Mên ngoài mặt tỏ ra không quan tâm, nhưng khi nhìn thấy sự nguy hiểm sắp xảy ra đối với những chú chim, Mên cũng chịu cùng em mình vượt qua con đò để giải cứu những chú chim. Chi tiết cuối cùng của chuyện lấy đi rất nhiều nước mắt của người đọc chính là khoảnh khắc Mon bật khóc khi chứng kiến cảnh chú chim non yếu đuối đập một nhịp quyết định bứt ra khỏi dòng nước và bay lên cao hơn. Quả thực, tình yêu thương loài vật của hai anh em Mon rất đáng được trân trọng và cảm phục.
Bài tham khảo 4:
Truyện ngắn “Bầy chim chia vôi” của tác giả Nguyễn Quang Thiếu chủ yếu nói về tình yêu thương loài vật của hai nhân vật Mon và Mên. Người ta thường nói, lòng yêu thương xuất phát từ đáy lòng. Với những tấm lòng vị tha, quan tâm và nhạy cảm, Mon và Mên đã mang đến những bài học bổ ích về tình yêu thương các loài vật trong cuộc sống. Thông qua rất nhiều chi tiết miêu tả tâm trạng hai anh em như: lo lắng khi trời mưa to chim không thể về bờ, mừng rỡ và xúc động khi những chú chim bứt phá, nỗ lực vượt qua khó khăn để cất cánh bay đầu tiên lên trời xanh. Từ đó cho chúng ta thấy được tình yêu thương loài vật cao quả và đẹp đẽ của anh anh em Mon. Để rồi mỗi chúng ta hãy yêu thương những loài vật nhỏ bé nhất trong cuộc sống.
Bài tập 2 trang 33 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1: Lập dàn ý cho đề văn sau: Phân tích đặc điểm nhân vật thầy Đuy-sen trong văn bản Người thầy đầu tiên (trích, Trin-ghi-dơ Ai-tơ-ma-tốp).
Trả lời:
* Dàn ý:
– Mở bài: Giới thiệu tác phẩm văn học và nhân vật; nêu khái quát ấn tượng về nhân vật.
– Thân bài: Phân tích đặc điểm của nhân vật
+ Nhân vật đó xuất hiện như thế nào?
+ Các chi tiết miêu tả hành động của nhân vật đó.
+ Ngôn ngữ của nhân vật
+ Những cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật như thế nào?
+ Mối quan hệ của nhân vật đó với các nhân vật khác
– Kết bài: Nêu ấn tượng và đánh gái về nhân vật
* Bài mẫu tham khảo:
Bài tham khảo 1:
“Người thầy đầu tiên” là một trong những truyện ngắn xuất sắc của tác giả Tri-ghi-dơ Ai-ti-ma-tốp khi kể về người thầy giáo Đuy-sen với những đặc điểm nổi bật để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.
Hình ảnh thầy giáo Đuy-sen được kể thông qua hồi ức của bà viện sĩ An-tư-nai Xu-lai-ma-nô-ta, bà vốn là học trò trước đây của thầy Đuy-sen. Khi đến vùng núi quê hương của An-tư-nai, thầy Đuy-sen còn rất trẻ. Học vấn thấy tuy chưa được cao nhưng thầy lại có trái tim dạt dào tình nhân ái và sục sôi nhiệt huyết cách mạng. Khi An-tư-nai và các bạn nhỏ đến thăm trường với bao tò mò để “xem thử thầy giáo đang làm gì, ở đấy cũng hay” thì thấy thầy “từ trong cửa bước ra, người bê bết đất”. Thầy “mỉm cười, niềm nở” quẹt mồ hôi trên mặt và ân cần hỏi các em học sinh.
Có thể thấy Đuy-sen đúng là một người thầy vĩ đại và cử chỉ rất hồn nhiên. Thầy hiền hậu nói lên những lời ấm áp lay động đến tâm hồn tuổi thơ. Mới gặp các em nhỏ xa lạ lần đầu mà thầy đã nhìn thấy, thấu rõ cái khao khát được học hành của các em. Thầy còn “khoe” với các em về chuyện đắp lò sưởi trong mùa đông, thấy bảo tin mừng vì trường học đã làm xong và có thể học được. Thầy mời chào, khích lệ với các em nhỏ dân tộc miền núi chưa từng biết mái trường là gì bằng tình yêu thương mênh mông: “Thế nào, các em có thích học không? Các em sẽ đi học chứ?”.
Thầy Đuy-sen còn là người có tài, giàu kinh nghiệm sư phạm. Khi chỉ sau một vài phút gặp gỡ, vài câu nói nhẹ nhàng mà thầy đã chiếm lĩnh tâm hồn tuổi thơ. Thầy đã khơi gợi trong lòng các em nhỏ miền núi khao khát được đi học. Đặc biệt với An-tư-nai, thầy nhìn thấy tâm can em, thông cảm với cảnh ngộ mồ côi của em và an ủi, khen tên của em hay, bảo em chắc là ngoan lắm. Câu nói chân tình ấy cùng với hiền hậu của thầy khiến cho An-tư-nai “thấy lòng ấm hẳn lại”. Không những thế, trước khi thầy đi lấy rạ khô, lúc tiễn các em nhỏ ra về, thầy nhẹ nhàng uốn nắn, mời mọc ân cần. Các em nhỏ khi ra về ai nấy cũng đều cảm thấy yêu mền, gắn bó với thầy và ngôi trường của làng quê thân yêu.
Một điểm nữa, Đuy-sen là người thầy đầu tiên đã khai tâm khai sáng cho An-tư-nai. Thầy hiền hậu, yêu thương tuổi thơ và đã đốt cháy lên trong lòng các em ngọn lửa nhiệt tình khát vọng được đi học. Có thể thấy, thầy Đuy-sen là hình ảnh tuyệt đẹp của một ông thầy tuổi thơ.
Tóm lại, Ai-ma-tốp đã viết nên hình ảnh thầy Đuy-sen bằng tất cả sự ca ngợi và niềm yêu thương bao la. Người thầy trong truyện ngắn là người thầy của tình thương đến với tuổi thơ, đem ánh sáng cách mạng làm thay đổi mọi cuộc đời.
Bài tham khảo 2:
Đến với văn bản “Người thầy đầu tiên” của Tri-ghi-dơ Ai-ti-ma-tốp chúng ta chắc hẳn không quên được hình ảnh trung tâm là người thầy Đuy-sen. Hình ảnh người thầy được hiện lên qua lời kể, cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật An-tư-nai. Nhà văn đã dùng nhiều những chi tiết miêu tả để khắc họa chân dung nhân vật thầy Đuy-sen một cách chân thực và cụ thể nhất. Đầu tiên là thông qua ngôn ngữ đối thoại với lời trò chuyện, thuyết phục các em nhỏ đi học, đồng thời còn động viên, khích lệ An-tư-nai. Tiếp đến là những hành động của thầy điển hình như: một mình sửa sang nhà kho cũ thành lớp học; bế các em nhỏ qua suối giữa mùa đông buốt giá; kiên trì dạy chữ cho các em bất chấp hoàn cảnh thiếu thốn, khắc nghiệt; sự cô độc và cò cả ước mơ về một tương lai tươi sáng cho học trò. Cũng chính vì thế mà An-tư-nai có cảm nhận sâu sắc về lòng nhân hậu, tình yêu thương của thầy và còn ước thầy là người anh ruột của mình. Thông qua những chi tiết đó, chúng ta có thể hình dung ra thầy Đuy-sen là một người có mục đích sống cao đẹp, cương nghị, kiên nhẫn, vị tha và nhân hậu. Trong đó, nổi bật nhất là tình cảm yêu thương, hết lòng vì học trò.
Xem thêm các bài giải SBT Ngữ Văn lớp 7 Kết nối tri thức hay, chi tiết khác:
Bài 2: Khúc nhạc tâm hồn
Bài 3: Cội nguồn yêu thương
Đọc mở rộng trang 34 tập 1
Bài 4: Giai điệu đất nước
Bài 5: Màu sắc trăm miền