Giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 10 Bài 2: Vẻ đẹp của thơ ca
Đọc hiểu và thực hành Tiếng Việt
Bài tập 1 trang 9 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Đọc lại ba bài thơ hai-cư (haiku) trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr. 45) và trả lời các câu hỏi:
Câu 1 trang 9 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Bạn đã gặp những “thách thức” nào khi đọc, cảm nhận chùm thơ hai-cư của Ba-sô (Basho), Chi-y-ô (Chiyo), Ít-sa (Issa)? Vì sao những điều bạn vừa nêu có thể được gọi là “thách thức”?
Trả lời:
– Các bài thơ quá ngắn, quá ít chữ, tước bỏ hết những dẫn dắt, thuyết minh; buộc độc giả phải phát huy khả năng liên tưởng, tưởng tượng ở mức cao mới có thể hình dung tương đối trọn vẹn về sự vật hay sự việc được nhắc đến.
– Các dòng thơ nhìn qua như rời rạc, thiếu vắng phương tiện kết nối giữa các hình ảnh, đòi hỏi độc giả phải làm đầy các khoảng trống hay những điểm trắng để phát hiện ra mỗi liên hệ giữa chúng.
– Hình ảnh trong các bài thơ dường như mới chỉ có tên, chưa có đặc điểm tạo hình cá biệt: cành khô, cánh quạ, chiều thu, hoa triêu nhan, dây gàu vương hoa, con ốc nhỏ, núi Phu-gi (Fuji). Điều này thật khác với vô số bài thơ mà ở đó, các hình ảnh được miêu tả thật chi tiết với nhiều màu sắc, âm thanh, hương vị,…
Như vậy, thơ hai-cư nói chung, ba bài thơ hai-cư trong SGK nói riêng có một tính chất rất đặc biệt, được sáng tác dựa trên nền tảng thâm sâu của văn hoá Nhật Bản và mĩ học Thiền tông. Trong thế giới của thơ hai-cư, tác giả đôi khi chỉ như một người gợi đề tài, còn việc “hoàn tất” tác phẩm được “nhường” cho độc giả.
Câu 2 trang 9 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Nếu ví mỗi bài thơ như một bức tranh không lời, theo bạn, những bức tranh này thuộc loại nào trong số các loại tranh mà bạn đã biết hoặc nghe nói tới?
Trả lời:
Nếu ví mỗi bài thơ như một bức tranh không lời thì loại tranh cần được đem ra so sánh để nhận ra nét tương đồng phải là tranh thuỷ mặc – một thể loại hội hoạ phổ biến trong nền văn hoá nghệ thuật truyền thống ở các nước Đông Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam. Tranh thuỷ mặc chú trọng “thần” hơn là “hình” thường sử dụng bút pháp chấm phá, chừa nhiều khoảng trống để mời gọi sự tưởng tượng, “bổ sung” của người tiếp nhận.
Câu 3 trang 9 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Khi phân tích hay phát biểu cảm nhận về các bài thơ hai-cư nói trên, thường bài viết, bài nói dài gấp nhiều lần độ dài vốn có của bài thơ. Hiện tượng này gợi lên ở bạn suy nghĩ gì?
Trả lời:
– Đây là hiện tượng cho thấy trữ lượng ý nghĩa của các bài thơ hai-cư rất phong phú, không bị giới hạn bởi số câu chữ ít ỏi.
– Hiện tượng này ngầm cảnh báo khả năng suy diễn quá xa về ý nghĩa các bài thơ hai-cư với sự rườm rà của lời bình.
Câu 4 trang 9 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Hãy xác định mối liên hệ giữa ba hình ảnh được gợi lên từ ba dòng thơ trong bài hai-cư của Ba-sô. So với hai hình ảnh đầu tiên, hình ảnh sau cùng có vị trí như thế nào?
Trả lời:
Ba dòng thơ, mỗi dòng gợi lên một hình ảnh riêng: cành khô, cánh quạ, chiều thu. Thoạt nhìn, những hình ảnh này có vẻ xuất hiện một cách ngẫu nhiên, không có mối liên hệ với nhau. Sự thực, chúng là những yếu tố hợp thành của một thể thống nhất. Riêng một cành khô hay cánh quạ tự chúng chưa nói được điều gì rõ rệt, thậm chí chỉ tồn tại đơn thuần như những khái niệm khách quan. Chỉ khi hai hình ảnh trên phối hợp với nhau thì cái tối giản bất biến của bản chất thế giới mới hiện hình, gợi lên một sự chiêm nghiệm trong tịch lặng. Chiều thu vừa như một bối cảnh nền vừa như kết quả cuối cùng có được hay thần thái toát lên của bức tranh – thơ, khi trên cành khô, một cánh quạ từ đâu đáp xuống, im lìm. Theo góc nhìn khác, trong bài thơ chỉ có hai hình ảnh đúng nghĩa, được “vẽ” theo lối điểm xuyết, còn chiều thu chỉ là tên gọi của một trạng thái tâm hồn mà nhân vật trữ tình muốn hướng đến hay đã đạt đến, một khi đã chủ động gạt hết mối bận tâm về những dáng vẻ (hình tướng) luôn thay đổi của vạn vật.
Câu 5 trang 9 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Phân tích ý nghĩa của phát hiện “Dây gàu vương hoa bên giếng” trong bài thơ của Chi-y-ô đối với chính nhà thơ và người đọc.
Trả lời:
Trong bài thơ của Chi-y-ô, dòng thứ hai không đơn thuần miêu tả một hiện tượng mà chủ yếu nêu lên một phát hiện. Từ dòng này, người đọc vừa nhận ra hình ảnh do thị giác nhà thơ “chụp” lại, vừa nắm bắt được những gì đang diễn ra trong tâm trạng, cảm xúc của nhà thơ. Đó có thể là một chút ngỡ ngàng, hân hoan hay là một thoáng phân vân, bối rối. Tất cả hợp nhất với nhau, làm cho hai dòng thơ trước và sau đó bị “nhiễm điện” để cùng truyền đạt một ý tưởng hay một cảm nhận xuyên suốt. Đối với tác giả, phát hiện về “Dây gàu vương hoa bên giếng” đã làm bật nảy ý thơ, tạo nên cấu trúc vận động của bài thơ. Chính nó khiến nhân vật trữ tình quyết định “giữ nguyên hiện trạng” dây hoa quấn quanh dây gàu để sang nhà bên xin nước. Đối với độc giả, phát hiện trên có thể đưa đến cảm nghĩ: nhà thơ là người có tâm hồn cực kì nhạy cảm, biết lắng nghe, trân trọng tiếng nói của cỏ cây, những vật vô tri và nhận thức được một cách sâu sắc sự liên quan, liên đới giữa mọi sinh thể, vật thể hiện diện trong cuộc sống này.
Câu 6 trang 9 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Làm rõ những mối tương quan đa chiều giữa các đối tượng được nhắc đến trong bài thơ của Ít-sa.
Trả lời:
Bài thơ của Ít-sa thể hiện được suy tưởng thâm trầm của nhà thơ về các mối tương quan đa chiều trong cuộc sống. Việc đặt hai đối tượng con ốc nhỏ và núi Phu-gi bên nhau có thể khiến người đọc nghĩ tới:
– Tương quan giữa cái cực tiểu và cái cực đại (con ốc nhỏ tí và núi Phu-gi đồ sô).
– Tương quan giữa khả năng hiện thực và mục tiêu to lớn đặt ra (con ốc bò chậm rì nhưng lại thực hiện một hoạt động gần như hoang tưởng: trèo núi Phu-gi).
– Tương quan giữa thời gian và không gian (qua theo dõi thời gian “trèo núi” của con ốc, ta có được cảm nhận trực quan hơn về kích thước vĩ đại của ngọn núi Phu-gi).
– Tương quan giữa con người với muôn vật trong vũ trụ (hình ảnh con ốc, núi Phu-gi mang tính biểu tượng, phản chiếu hoạt động của con người trong thế giới bao la).
→ Với bài thơ của Ít-sa, tuỳ vào trải nghiệm và nhận thức của mình, từng người đọc cụ thể sẽ tìm được những điều tâm đắc riêng. Tuy nhiên, đặt bài thơ vào trong mạch suy tư, chiêm nghiệm của các bậc thầy thơ hai-cư, không nên cảm nhận bài thơ ở khía cạnh hài hước (do ngôn ngữ của bản dịch có thể gợi lên). Sự thực, hành trình của con ốc nhỏ cũng tương tự như mọi hành trình trong cuộc đời, cần được thực hiện với một tâm thế an nhiên và thái độ không sốt ruột, vội vã. Con ốc cứ trèo núi Phu-gi, khi nó đã định. Đích có khi không phải ở phía trước mà ở ngay trong mình, ở sự làm chủ chính mình.
Bài tập 2 trang 9 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Đọc lại văn bản Thu hứng trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr. 47 – 48) và trả lời các câu hỏi:
Câu 1 trang 9 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Hãy nêu cảm xúc của bạn khi đọc bài thơ Thu hứng. Cho biết lí do bạn có cảm xúc như vậy.
Trả lời:
– Các trạng thái cảm xúc, cảm giác có thể nảy sinh từ hiệu ứng của tác phẩm: Cảm xúc u buồn, xa vắng trước khung cảnh mùa thu hiu hắt, tàn tạ; cảm giác bất an về sự nhỏ bé, cô đơn của con người trước vũ trụ rộng lớn, thiên nhiên mùa thu rợn ngợp; cảm xúc buồn nhớ quê hương trong hoàn cảnh tha hương, trước cái lạnh lẽo của mùa thu;…
– Trạng thái cảm xúc được gợi lên từ sự đồng cảm với tâm trạng của nhà thơ trong một hoàn cảnh đặc biệt: thiên nhiên hoang tàn, tiêu điều, xơ xác; cảnh tượng núi non xa vắng, sóng tung gió giật mù mịt tối tăm; sông nước mênh mông, con thuyền cô lẻ, hoa cúc nhỏ lệ; âm thanh tiếng chày đập vải vang vọng núi non thúc giục nỗi nhớ nhà da diết;…
Câu 2 trang 9 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Xuất phát từ nghĩa của từ “hứng” trong nhan đề bài thơ, hãy tìm và giải thích nghĩa ba từ ghép Hán Việt có chứa yếu tố này.
Trả lời:
– “Hứng/ có nghĩa là cảm xúc, trạng thái tinh thần khởi dậy mạnh mẽ ở trong lòng.
– Từ ghép Hán Việt có chứa yếu tố “hứng; ví dụ: cảm hứng, hứng thú,… Tra từ điển để tự giải thích nét nghĩa cơ bản của các từ vừa tìm được.
Câu 3 trang 9 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Theo nguyên văn, nhan đề Thu hứng có thể được dịch theo nhiều cách: “Cảm xúc về mùa thu” (mùa thu là đối tượng của xúc cảm); “Cảm xúc trong mùa thu” (mùa thu là bối cảnh thời gian xuất hiện cảm xúc);… Căn cứ vào bản dịch trong SGK, theo bạn, người dịch đã hiểu nhan đề theo cách nào?
Trả lời:
Câu hỏi này đòi hỏi phải hiểu được quan hệ ngữ pháp của cụm từ “thu hứng” trong nguyên văn và cụm từ “cảm xúc mùa thu” trong bản dịch.
– Cấu trúc của cả nguyên văn và bản dịch đều đa nghĩa, chính vì thế đã dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Bên cạnh đó, để hiểu được đúng cách hiểu của người dịch còn cần căn cứ vào chính nội dung của tác phẩm.
– Ở đây, người dịch đã hiểu nhan đề bài thơ một cách tổng hợp: vừa là xúc cảm về mùa thu (khung cảnh mùa thu thiên nhiên), vừa là xúc cảm trong mùa thu (bức tranh mùa thu nội tâm).
Câu 4 trang 9 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Xác định và nêu nhận xét về mô hình luật bằng trắc của bài thơ.
Trả lời:
– Căn cứ thanh điệu từng tiếng trong mỗi câu để xác định. Ví dụ, với câu 3: B-B-B-T-B-B-T. Cần ôn lại kiến thức về niêm, luật trong thơ Đường luật, đặc biệt chú ý thanh điệu của các chữ thứ 2 – 4 – 6 trong mỗi câu để nêu nhận xét.
– Bài thơ viết theo luật trắc, các vị trí thanh điệu yêu cầu bắt buộc phải tuân thủ (vị trí 2 – 4 – 6 trong mỗi câu thơ) không có phá cách.
Câu 5 trang 9 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Chỉ ra hiện tượng đổi về ý trong liên thơ thứ 2 và thứ 3, phân tích tác dụng của nó.
Trả lời:
Thơ Đường luật bát cú quy định hai liên giữa bài thơ phải có đối. Đối về ý cố nhiên có mối quan hệ chặt chẽ với việc đồi về từ và cú pháp, vì thế trước hết cần xuất phát từ câu chữ để hiểu ý của từng câu thơ (xem lại bản dịch nghĩa bài thơ trong SGK). Sau đó, đặt trong tương quan cặp câu để chỉ ra biểu hiện và tác dụng của đối về ý. Sau đây là gợi ý liên thơ thứ 2 với liên thơ thứ 3.
– Nghĩa của từng câu thơ:
+ Câu 3: Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng (Giữa lòng sông, sóng tung vọt trùm bầu trời).
+ Câu 4: Tái thượng phong vân tiếp địa âm (Từ trên cửa ải, gió mây sà xuống khiến mặt đất âm u).
– Biểu hiện của đối về ý trong hai câu trên có sự tương phản: ở câu 3, cảnh vận động từ thấp lên cao (sóng nước từ dưới lòng sông tung vọt lên cao); ở câu 4, cảnh vận động từ cao xuống thấp (gió mây trên núi cao quét xuống).
– Tác dụng: Khái quát hoá về một cảnh tượng thiên nhiên rộng lớn, chao đảo, mù mịt, tối tăm. Qua đó biểu đạt cảm giác nhỏ bé, bất an của con người.
Bài tập 3 trang 10 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Đọc bốn câu đầu bài thơ Thu vịnh của Nguyễn Khuyến dưới đây, so sánh với bốn câu đầu của bài Thu hứng và trả lời các câu hỏi:
Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
(Thơ văn Nguyễn Khuyến, NXB Văn học, Hà Nội, 1979, tr. 121)
Câu 1 trang 10 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Hãy nêu cảm nhận chung nhất của bạn về bức tranh mùa thu trong bốn câu thơ đầu của hai bài thơ.
Trả lời:
– Bức tranh mùa thu trong bốn câu đầu bài Thu hứng: Khung cảnh mùa thu rộng lớn nhưng u buồn, tàn tạ. Sương trắng làm tàn úa rừng phong, khí thu tiêu điều lạnh lẽo bao trùm núi non. Bức tranh mùa thu được nhìn bao quát, điểm nhìn từ xa; cảnh vật gợi vẻ tiêu sơ, rợn ngợp, khiến con người dễ có cảm giác nhỏ bé, cô đơn;…
– Bức tranh mùa thu trong bốn câu đầu bài Thu vịnh: Khung cảnh mùa thu cao rộng, trong sáng, thanh thoát. Trời xanh, nước biếc, trăng soi;… thể hiện cảnh yên bình của làng quê. Bức tranh mùa thu được nhìn vừa bao quát, vừa chi tiết, điểm nhìn đan xen viễn cảnh và cận cảnh; cảnh vật gợi sự thanh nhàn, tâm hồn con người cao nhã, tự tại,…
Câu 2 trang 10 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Thống kê các động từ và tính từ trong bốn câu đầu của mỗi bài thơ và nêu nhận xét.
Trả lời:
– Thu hứng có các động từ, tính từ sau: (a) Động từ: điêu thương (làm đau thương), kiêm (trùm lên), dũng (nước tung vọt), tiếp (sà xuống), âm (làm tối tăm); (b) Tính từ: ngọc (màu trắng), tiêu sâm (tiêu điều). Nhận xét: Một số từ được dùng theo phương thức chuyển từ loại (ví dụ: âm vốn là tính từ, với nghĩa là tối tăm, trong câu thơ được dùng như động từ, với nghĩa là làm cho tối tắm…). Các động từ được sử dụng với số lượng nhiều hơn, cho thấy cảm xúc của tác giả thiên về nói cảnh để ngụ ý; các động từ không chỉ biểu đạt sự vận động của cảnh (dũng, tiếp), mà còn nhấn mạnh sự tác động của thời gian vào cảnh vật (điêu thương),… Từ ngữ được sử dụng một cách đắc địa, thể hiện dụng ý của tác giả một cách rõ ràng.
– Thu vịnh có các động từ, tính từ sau: (a) Động từ: trông, phủ, vào; (b) Tính từ: xanh ngắt, cao, lơ phơ, hắt hiu, biếc, thưa. Nhận xét: Các tính từ được sử dụng với mật độ dày đặc, nhiều tính từ chỉ mức độ, cho thấy bốn câu đầu bài thơ thiên về tả cảnh; khung cảnh mùa thu cao xanh, tĩnh lặng, trong sáng,… thể hiện tâm hồn khoáng đạt, thanh thoát của nhà thơ.
Câu 3 trang 10 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Hệ thống hình ảnh được hai tác giả sử dụng để miêu tả mùa thu trong hai bài thơ có gì khác biệt?
Trả lời:
– Cần liệt kê được các hình ảnh miêu tả mùa thu (trong bốn câu đầu) của mỗi bài thơ, lựa chọn một số hình ảnh chính, sau đó so sánh để chỉ ra sự khác biệt.
– Hệ thống hình ảnh trong bốn câu đầu bài Thu hứng: sương trắng, rừng phong, núi non hiu hắt, sóng nước tung vọt, gió mây tối tăm,…; hệ thống hình ảnh trong bốn câu đầu bài Thu vịnh: trời xanh, nước biếc, cần trúc lơ phơ, tầng khói phủ, trăng sáng,… Sự khác biệt: Bức tranh thu trong bài Thu hứng dùng nhiều hình ảnh ước lệ, gợi đặc trưng của mùa thu phương Bắc, thể hiện cảm xúc u buồn; bức tranh thu trong bài Thu vịnh sử dụng nhiều hình ảnh cụ thể, gắn với đặc trưng mùa thu nông thôn Việt Nam, thể hiện cảm xúc bình yên, thanh nhàn.
Câu 4 trang 10 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Chỉ ra nét khác biệt trong cảm xúc về mùa thu của hai nhà thơ (thể hiện qua bốn câu thơ đầu ở mỗi bài).
Trả lời:
– Các câu hỏi trên đã gợi dẫn về hệ thống từ ngữ, hình ảnh,… miêu tả bức tranh mùa thu trong hai bài thơ. Câu hỏi này đòi hỏi khái quát cao hơn, từ việc nhận diện bức tranh mùa thu trong bốn câu đầu của mỗi bài để so sánh cảm xúc về mùa thu của hai tác giả, thuộc hai nền văn hoá, ở hai thời kì khác nhau, có vị thế và thân phận khác nhau,…
– Cảm xúc về mùa thu trong bốn câu đầu bài Thu hứng thể hiện rõ tâm trạng u buồn, đau thương; hình ảnh con người nhỏ bé, cô đơn trong vũ trụ rộng lớn;… Cảm xúc về mùa thu trong bốn câu đầu bài Thu vịnh thể hiện tâm hồn tĩnh lặng, thanh cao của con người giữa thiên nhiên đất trời.
Câu 5 trang 10 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Hãy sưu tầm, liệt kê tối thiểu năm bài thơ viết về mùa thu trong thơ ca cổ kim mà bạn biết, sau đó điền các thông tin tương ứng vào vở theo bảng gợi ý sau:
STT |
Tên tác phẩm |
Tác giả, thời kì |
Quốc gia |
Ấn tượng chung về tác phẩm |
1 |
Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) |
Đỗ Phủ, thế kỉ VII |
Trung Quốc |
… |
2 |
… |
|
|
|
Trả lời:
STT |
Tên tác phẩm |
Tác giả, thời kì |
Quốc gia |
Ấn tượng chung về tác phẩm |
1 |
Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) |
Đỗ Phủ, thế kỉ VII |
Trung Quốc |
– Thiên nhiên ảm đạm, hiu hắt của mùa thu. – cái tình của nhà thơ nhớ nước, thương dân |
2 |
Thu điếu (Câu cá mùa thu) |
Nguyễn Khuyến |
Việt Nam |
– Bức tranh thu trong sáng, thanh đạm mang hồn dân dã của làng quê nước Việt. – Tâm hồn gắn bó tha thiết với thiên nhiên đất nước, một tấm lòng yêu nước thầm kín nhưng không kém phần sâu sắc. |
3 |
Sang thu |
Hữu Thỉnh |
Việt Nam |
Thiên nhiên lúc sang thu và suy ngẫm về đời người khi chớm thu. |
4 |
Đây mùa thu tới |
Xuân Diệu |
Việt Nam |
Cảnh thu, tình thu đẹp nhưng buồn |
5 |
Thơ tình cuối mùa thu |
Xuân Quỳnh |
Việt Nam |
Hình ảnh giản dị, quen thuộc miền quê đồng bằng Bắc Bộ; tâm sự của một người đàn bà khi đang đắm chìm trong tình yêu. Khắc khoải, tinh tế, đầy xúc cảm, hồ nghi nhưng cũng tràn ngập sự tin tưởng. |
Bài tập 4 trang 10, 11 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:
Trình tự phân tích một bài thơ bát cú Đường luật, thường gọi là “luật thi” là một biểu hiện cụ thể của phương pháp phân tích một bài thơ Đường luật. Nói chung mọi người đều cho rằng cách phân tích hợp lí nhất là cắt ngang theo bố cục. Đó là điều dễ hiểu và dễ thống nhất vì xưa nay ai cũng chấp nhận rằng một bài luật thi gồm có bốn “liên” (nghĩa là “cặp câu” tức hai dòng thơ số lẻ và số chẵn đi liền nhau) và trong mỗi liên, giữa câu số lẻ và số chẵn có quan hệ với nhau về nhiều mặt. […]
Trước hết, cần thấy rằng quả “liên” là đơn vị hết sức cơ bản trong luật thi. Dù phân tích theo phương pháp nào và theo quan niệm bố cục nào thì hầu như trong mọi trường hợp, vẫn phải xuất phát từ việc phân tích đơn vị có tính chất cơ sở đó. Một dòng luật thi đứng tách ra sẽ không cho thấy vẻ đẹp đầy đủ của nó mặc dù xét về phương diện cú pháp, tự nó hầu hết đã hoàn chỉnh.
Qua các tài liệu trình bày ở trên, ta thấy trình tự […] “đề – thực – luận – kết” chỉ là cái khung mà người đời sau choàng lên cho thơ Đường luật. Dĩ nhiên, trình tự đó có cái “lí” của nó: Tác phẩm nào chả có phần mở đầu, phần kết, phần giữa và riêng phần giữa, phần “thân bài” lại có thể phân ra nữa? […]
Dẫu sao thì các trình tự bố cục nói trên cũng đã được hình thành từ lâu, do đó, đã có tác dụng hướng đạo sự sáng tác của nhiều thế hệ. Bởi vậy, vận dụng nó trong nhiều trường hợp cũng phù hợp, đặc biệt là với những bài luật thi được sáng tác từ thời cận đại trở về sau. Mặc dù vậy, nếu coi đó là một bố cục tất yếu để vận dụng phân tích bất cứ bài luật thi nào thì nhất định sẽ có lúc rơi vào chỗ gượng ép, khiên cưỡng. Những tác phẩm luật thi được đưa ra phân tích thường là những tác phẩm xuất sắc, do đó, đều là những công trình sáng tạo. Mà đã sáng tạo thì nhất thiết không bao giờ chịu gò vào những khuôn khổ quá chặt chẽ. […]
Như vậy là cho đến nay có ba quan niệm khác nhau về mô hình luật thi: 2/2/2/2; 4⁄4; 2/4/2. Cả ba mô hình, theo chúng tôi nhận xét, đều có căn cứ trong thực tiễn, đều có cơ sở lí thuyết khá rõ ràng. […] Dùng mô hình nào là do thực tiễn của bài thơ quy định. Song như đã nói trên, sáng tạo nghệ thuật không phải bao giờ cũng chịu gò bó theo những thể thức nhất định. Bởi vậy trong thực tế nhiều khi có những bài không thể vận dụng được bất cứ một trong ba mô hình nói trên.
(Theo Nguyễn Khắc Phi, Về trình tự phân tích một bài thơ bát cú Đường luật, in trong Về thi pháp thơ Đường, NXB Đà Nẵng, 1997, tr. 53 — 65)
Câu 1 trang 11 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Theo tác giả đoạn trích, câu thơ hay cặp câu thơ là đơn vị cơ bản của một bài thơ Đường luật?
Trả lời:
– Trong đoạn trích này, tác giả khẳng định: “cần thấy rằng quả liên là đơn vị hết sức cơ bản của luật thi”. Việc xác định “đơn vị cơ bản” trong trường hợp này chủ yếu xét ở góc độ cấu trúc hình thức và bố cục ý của tác phẩm. Quan điểm này có cơ sở thuyết phục.
– Trong một bài Đường luật bát cú, hai liên giữa bắt buộc phải đối, các liên còn lại có thể đối hoặc không cần đối. Với các cặp câu đối nhau, câu này có mối quan hệ chặt chẽ và chi phối câu kia về các mặt quan hệ; chúng tạo thành một chỉnh thể ngữ pháp và do đó, biểu thị trọn vẹn một nội dung. Ở các cặp câu không bắt buộc hoặc không sử dụng thủ pháp đối (về thanh điệu, từ vựng, cú pháp), thực chất giữa các câu đều có quan hệ logic về ý.
Câu 2 trang 11 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Mô hình kết cấu 2/2/2/2 của một bài thơ bát cú Đường luật (thường được gọi là “đề – thực – luận – kết”) là do các nhà thơ đời Đường đặt ra hay do người đời sau khái quát về cấu trúc chung của thể thơ này?
Trả lời:
Theo lí giải của tác giả và thực tế lịch sử văn học, mô hình kết cấu 2/2/2/2 của một bài thơ bát cú Đường luật (thường được gọi là “đề – thực – luận – kết”) không phải do các nhà thơ đời Đường đặt ra mà là do người đời sau khái quát về cấu trúc chung của thể thơ này. Đặc biệt là cách gọi tên “đề” “thực” “luận”, “kết” và việc gán cho chúng những chức năng xác định.
Câu 3 trang 11 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Các mô hình luật thi nói trên có bao quát hết thực tiễn sáng tác của thơ Đường luật hay không? Quan điểm của tác giả bài viết về vấn đề phân định cấu trúc bài thơ theo các mô hình phổ biến nói trên như thế nào?
Trả lời:
– Theo lí giải của tác giả, các mô hình luật thi nói trên không thực sự bao quát hết thực tiễn sáng tác của thơ Đường luật. Trong thực tế sáng tác, tuy ngầm thừa nhận những “công thức” “mô hình” thi luật của thể loại, nhưng nhà thơ Đường thường xuyên “phá cách” để cốt biểu đạt cảm xúc và suy tư riêng của mình.
– Quan điểm của tác giả bài viết về vấn đề phân định cấu trúc bài thơ theo các mô hình phổ biến nói trên: Cần phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để xác định mô hình cấu trúc. Tác giả cho rằng, đó không phải là “một bố cục tất yếu”; vì thế, nếu vận dụng một cách áp đặt để phân tích bất cứ bài luật thi nào thì nhất định sẽ có lúc rơi vào chỗ gượng ép, khiên cưỡng.
Câu 4 trang 11 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Theo tác giả đoạn trích, vì sao “Một dòng luật thi đứng tách ra sẽ không cho thấy vẻ đẹp đầy đủ của nó”?
Trả lời:
– Xét về phương diện cú pháp, tự mỗi câu thơ đã có một cấu trúc nhất định, hầu hết đã biểu thị một ý nghĩa hoàn chỉnh. Tuy vậy, tác giả vẫn cho rằng, một dòng luật thi (tức là một câu thơ luật) đứng tách ra sẽ không cho thấy “vẻ đẹp đầy đủ” của nó. Lí do căn bản là ở chỗ, các câu thơ, trong cấu trúc “cơ sở” (liên thơ) và “chỉnh thể” (bài thơ) đều có quan hệ với nhau. Về hình thức, “niêm” chính là mô hình cấu trúc theo chiều dọc, giữa các câu và cặp câu đều có chi phối, ước thúc lẫn nhau. Về nội dung, chúng tạo ra một ý nghĩa khái quát theo một kiểu quan hệ nhất định.
Câu 5 trang 11 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Các kiểu mô hình cấu trúc (2/2/2/2; 4/4; 2/4/2) có tác dụng như thế nào đối với người sáng tác theo thể Đường luật đời sau? Vì sao?
Trả lời:
Theo tác giả, các kiểu mô hình cấu trúc (2/2/2/2; 4/4; 2/4/2) đã được hình thành từ lâu (trong thực tiễn sáng tác của thơ ca đời Đường), tức là đã hình thành một truyền thống. Vì thế, đối với thơ ca sáng tác theo thể Đường luật đời sau, nó “đã có tác dụng hướng đạo sự sáng tác của nhiều thế hệ. […], đặc biệt là với những bài luật thi được sáng tác từ thời cận đại trở về sau”
Bài tập 5 trang 11, 12 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Đọc lại văn bản Mùa xuân chín trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr. 50) và trả lời các câu hỏi:
Câu 1 trang 11 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Bài thơ được viết bằng thể thơ gì? Hãy kể tên một số bài thơ khác mà bạn biết cũng sử dụng thể thơ này và mô tả đặc điểm chung về hình thức của chúng.
Trả lời:
– Bài thơ được viết bằng thể bảy chữ hiện đại có nguồn gốc từ thể thất ngôn cổ phong, lại có quan hệ gần gũi với thể thất ngôn bát cú và thất ngôn tứ tuyệt vốn phổ biến trong thơ thời trung đại.
– Một vài đặc điểm chung của thơ bảy chữ hiện đại:
+ Mỗi dòng thơ có bảy tiếng.
+ Bài thơ thường được phân thành nhiều khổ, mỗi khổ thường gồm bốn dòng.
+ Vần phổ biến là vần chân (Ví dụ: khổ đầu của bài thơ Mùa xuân chín: tan,
vàng, sang), nhiều trường hợp có cả vần lưng.
+ Vần có khi được gieo ở cuối những dòng sát nhau (tạo thành vẩn liền) hoặc
gieo cách quãng (tạo thành vần cách). Ngoài ra, còn có vần ôm. Việc vận dụng phối hợp nhiều cách gieo vần không chỉ tạo nên sự kết nối giữa các dòng trong một khổ mà còn giữa các dòng thuộc những khổ thơ khác nhau.
– Cách ngắt nhịp trong thơ bảy chữ hiện đại không cố định, nhằm lưu giữ được
vẻ sống động, “nguyên chất” của cảm xúc được giãi bày.
Câu 2 trang 12 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Nhan đề Mùa xuân chín có thể gây nên sự chờ đợi gì ở độc giả? Theo bạn, sự chờ đợi đó đã được tác giả đáp ứng như thế nào?
Trả lời:
– Nhan đề bài thơ là một tổ hợp từ ngữ khá đặc biệt, ở đó có sự ghép nối giữa một từ chỉ thời gian (mùa xuân) với một từ chỉ trạng thái mang tính vật chất của sự vật (chín). Đây là một kiểu tổ hợp từ ngữ khá phổ biến của thơ hiện đại mà các nhà Thơ mới là những người ghi được dấu ấn đậm nét đầu tiên, góp phần vật chất hoá những ý niệm trừu tượng, mơ hồ nhằm tác động mạnh vào tri giác của người đọc theo đòi hỏi của thi pháp thơ lãng mạn.
– Cụm từ “mùa xuân chín” một mặt gợi liên tưởng về sự viên mãn của mùa xuân, mặt khác gây ám ảnh không dứt về “độ phai tàn sắp sửa” Xuyên suốt bài thơ, hai thái cực này của “mùa xuân chín” được tác giả đồng thời tô đậm. Tiếng đàn thơ đang lảnh lót ngân vang cùng “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời” bỗng hạ xuống cung trầm với một lời nhắc chứa đựng thoáng giật mình thảng thốt: “- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy/ Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi”. Sự đối lập giữa hình ảnh “Bao cô thôn nữ hát trên đồi” với “- Chị ấy, năm nay còn gánh thóc” cũng mở rộng, khơi sâu thêm những ấn tượng đã được báo hiệu từ nhan đề.
Câu 3 trang 12 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Sắc màu, âm thanh và sức sống của mùa xuân đã được tác giả thể hiện như thế nào qua các phương tiện ngôn từ?
Trả lời:
– Bài thơ vẽ ra một bức tranh xuân tươi tắn sắc màu, rộn rã âm thanh. Tác giả đã sử dụng một cách rất tinh tế những từ ngữ chỉ màu sắc (lấm tấm vàng, tà áo biếc, sóng cỏ xanh tươi) và từ ngữ chỉ âm thanh (sột soạt, tiếng ca vắt vẻo, hồn hển, thẩm thì). Các từ ngữ ấy đã kết hợp một cách khéo léo với hàng loạt động từ được gieo vào những vị trí rất “đắc địa” (ửng, tan, trêu, gợn, gặp, sực nhớ), nhằm gây ấn tượng về sự xuất hiện tiếp nối, liên hoàn của các hình ảnh nhờ một tác động thần diệu nào đó. Có thể biểu diễn ấn tượng này bằng một sơ đồ:
– Cũng không thể không nói đến hệ thống vần kết thúc bằng phụ âm n, ng có đặc tính vang: tan, vàng, sang, làng, chang (chang chang), dễ đưa đến ấn tượng về một cái đẹp mong manh, khiến ta vừa sững sờ, hân hoan, vừa lo lắng, e ngại, chỉ sợ tất cả chóng tan biến đi như một ảo ảnh.
Câu 4 trang 12 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Phân tích hình ảnh hiện lên trong hồi tưởng của nhân vật trữ tình ở hai dòng cuối bài thơ.
Trả lời:
Người phụ nữ gánh thóc “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?” xuất hiện ở cuối bài thơ là hình ảnh nằm dưới đáy sâu kí ức thể hiện tất cả nỗi ưu tư và niềm thương cảm của nhân vật trữ tình về làng quê. Những dự cảm lo âu mơ hồ khi đối diện với sự viên mãn của mùa xuân (cả xuân sắc của đất trời và xuân thì của đời người) cuối cùng đã xác định được nguyên nhân. Sau cái vui là nỗi lo, sau cảm xúc bồng bột, hứng khởi là cảm giác trĩu nặng, có phần day dứt. Độ chín của mùa xuân mở ra trước mắt mỗi người một cơ hội để ta nhìn thấy rõ hơn bản chất của đời người, của sự sống, giúp ta thấy quý trọng hơn những giây phút được sống trong thì hiện tại.
Câu 5 trang 12 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Làm rõ giá trị biểu đạt của dấu chấm câu ở cuối khổ 1 và dấu gạch đầu dòng ở khổ 2, khổ 4.
Trả lời:
– Dấu chấm câu xuất hiện ở giữa câu 4 của khổ 1 khá đặc biệt. Từ ấn tượng thị giác về dấu câu được đặt ở vị trí này, độc giả buộc phải điều chỉnh cách đọc thơ theo lối tuyến tính để cảm nhận được sức nặng của từng cụm từ, hình ảnh. Theo đó, “Bóng xuân sang” có thể được hiểu như là hình ảnh đánh dấu sự bừng tỉnh của tác giả về dấu ấn hiển nhiên của mùa xuân. Với dấu chấm đặt ở đây, câu “Trên giàn thiên lí” cũng gợi những cách diễn giải khác nhau, tuỳ sự kết nối của độc giả với câu trước đó: “Sột soạt gió trêu tà áo biếc”.
– Ở khổ 2 và khổ 4 của bài thơ xuất hiện hai dấu gạch đầu dòng. Các kí hiệu này cho thấy mạch thơ trong từng khổ có sự chuyển đổi đột ngột. Việc đắm mình trong màu sắc, hương vị của mùa xuân không ngăn được nhân vật trữ tình liên tưởng tới những ngày tiếp nối: “Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi.” và sẽ oằn vai vì gánh nặng cuộc đời…
Bài tập 6 trang 12 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Đọc lại văn bản Bản hoà âm ngôn từ trong Tiếng thu của Lưu Trong Lư trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr. 53 – 57) và trả lời các câu hỏi:
Câu 1 trang 12 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Theo bạn, câu văn nào trong văn bản có thể khái quát được chính xác và đầy đủ ý tưởng chính của tác giả khi đặt bút viết bài bình thơ này?
Trả lời:
Câu chủ đề: Từng có câu…. mà thành Tiếng thu.
Câu 2 trang 12 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Tóm tắt những ý đã được tác giả triển khai nhằm chứng minh: âm điệu là một trong những phương diện đặc sắc nổi bật của bài thơ Tiếng thu.
Trả lời:
Những ý đã được tác giả triển khai nhằm khẳng định âm điệu là một trong những phương diện đặc sắc nổi bật của bài thơ Tiếng thu:
– Ba phần nội dung của bài thơ hợp thành một khúc thức gồm ba lời (nghĩa là bài thơ có kết cấu rất âm nhạc), vừa lặp lại, vừa phát triển.
– Vần điệu trong bài thơ vừa phong phú (có cả vần bằng lẫn vần trắc), vừa nhất quán (bằng và trắc, mỗi vần chỉ có một khuôn âm), hoà hợp tự nhiên với nhịp (nhịp chung ít biến động của thể thơ), tạo thành một giai điệu thu hoàn hảo.
– Tiếng thu là bản hoà âm giữa bằng và trắc, trong đó, âm bằng chiếm ưu thế nhưng âm trắc lại tạo nên nét hiếm quý của toàn bản nhạc thơ.
– Tiếng thu có sự cộng hưởng giữa âm nền (“thổn thức” “rạo rực”) và âm nổi (“xào xạc”), vừa miêu tả được trạng thái của thiên nhiên, tạo vật, vừa thể hiện được điệu hồn của nhà thơ và thời đại.
Câu 3 trang 12 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Bài viết có nhiều phát hiện tinh tế về bài thơ Tiếng thu. Theo bạn, phát hiện nào sáng giá, gây ấn tượng hơn cả? Vì sao?
Trả lời:
– Bài thơ có sự hoà điệu đầy nhạc tính giữa tiếng thu và tiếng thơ.
– Bài thơ như một khúc thức âm nhạc gồm ba lời.
– Bài thơ nói đến ba thứ tiếng (tiếng thốn thức của mùa thu dưới trăng mờ, tiếng rạo rực của lòng người cô phụ, tiếng lá thu “kêu xào xạc”), trong đó, chỉ “xào xạc” là âm thanh có thể nghe được bằng thính giác (âm nổi), trở thành “người phát ngôn” chính thức của Tiếng thu, cho thấy đằng sau nó là cả một bản giao hưởng vô hình của những nỗi xôn xao huyền diệu mà nhà thơ cảm thấy và muốn thể hiện rõ.
Câu 4 trang 12 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Các đoạn 1, 2, 3 của văn bản đề cập những vấn đề gì? Việc nhận thức sâu sắc về những vấn đề đó có ý nghĩa như thế nào đối với việc cảm thụ, phân tích bài thơ Tiếng thu?
Trả lời:
Các vấn đề được đề cập trong các đoạn 1, 2, 3 của văn bản đề cập đến những vấn đề:
– Mối quan hệ đặc biệt giữa mùa thu và thi ca.
– Vẻ đẹp yên bình, thanh vắng của thiên nhiên trong thơ cổ điển.
– Xôn xao – điệu hồn riêng của Thơ mới.
→ Việc nhận thức sâu sắc về những vấn đề trên giúp người đọc, người phê bình có được cái nhìn bao quát về một số điều kiện văn hoá, mĩ học, văn học làm nảy sinh phong trào Thơ mới và dẫn đến sự ra đời của bài thơ Tiếng thu. Đồng thời, điều này cũng có ý nghĩa định hướng cho việc cảm thụ, phân tích bài thơ: làm thế nào để nhận ra được vẻ đẹp độc đáo của Tiếng thu cũng như điệu hồn của thời đại được phổ vào trong đó.
Câu 5 trang 12 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Đánh giá khái quát về mạch lạc và liên kết trong văn bản.
Trả lời:
Đánh giá khái quát về mạch lạc và liên kết trong văn bản:
– Văn bản được người biên soạn SGK chia thành 13 đoạn. Tất cả các đoạn đều hướng về làm rõ chủ để chung của bài viết: Tiếng thu của Lưu Trọng Lư là một bản hoà âm ngôn từ độc đáo.
– Mỗi đoạn văn đều xoáy vào một tiêu điểm, lần lượt làm rõ các khía cạnh có liên quan tới việc đánh giá đóng góp của Lưu Trọng Lư cho thơ viết về đề tài mùa thu – một đóng góp mang đậm dấu ấn phong cách cá nhân cũng như phong cách thơ của thời Thơ mới.
– Giữa các đoạn luôn xuất hiện các phương tiện liên kết với sự láy lại nhiều từ, cụm từ, thể hiện việc giải đáp liên tục các câu hỏi nảy sinh theo logic liên tưởng và suy luận.
– Trong từng đoạn văn, các câu gối nhau theo tương quan hỏi – đáp với sự xuất hiện của nhiều đại từ và kết từ.
→ Nhìn chung, Bản hoà âm ngôn từ trong Tiếng thu của Lưu Trọng Lư là một văn bản có cấu trúc chặt chẽ, đảm bảo những yêu cầu khắt khe về mạch lạc và liên kết.
Bài tập 7 trang 12 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Đọc lại văn bản Cánh đồng trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr. 71) và trả lời các câu hỏi:
Câu 1 trang 12 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Ấn tượng đầu tiên của bạn về bài thơ Cánh đồng của Ngân Hoa là gì? Vì sao bạn có ấn tượng đó?
Trả lời:
– Sự biến hóa nhịp điệu khiến bài thơ như một trang sách tự sự.
– Sự kết hợp hài hòa giữ hình ảnh gam màu sáng, trong trẻo với hình ảnh gam màu tối, âm u, ẩm ướt.
– Mạch thơ đi theo dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình.
Câu 2 trang 12 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: So với việc đọc những bài thơ thuộc các thể loại khác, thể loại mà tác giả lựa chọn đã gây khó khăn hay tạo niềm hứng thú cho bạn như thế nào?
Trả lời:
– Thể loại bài thơ “Cánh đồng” là thơ tự do.
– Tính chất tự do của hình thức thơ (số tiếng trong dòng thơ, số dòng thơ trong bài thơ, số dòng thơ ở mỗi khổ; vần, nhịp;…).
– Lối triển khai mạch cảm xúc, suy tưởng rất tự do, phóng túng với nhiều liên tưởng bất ngờ, không dễ nắm bắt.
– Tính biểu tượng của các hình ảnh.
Câu 3 trang 12 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Xác định mối liên hệ giữa các hình tượng chính trong bài: em, đoá cúc, bình gốm, cánh đồng.
Trả lời:
Bài thơ có các hình tượng chính: em, đoá cúc, bình gốm, cánh đồng. Các hình tượng vừa tồn tại độc lập vừa chuyển hoá hoà lẫn vào nhau. “Em”, từ chỗ là một đối tượng khác với “cánh đồng”, khi “chạy về với cánh đồng rộng lớn mùa xuân” và để “chân ngập trong đất mềm tươi xốp”, phút chốc bỗng hoá chính cánh đồng để gọi mùa màng mới, thúc giục sự sống sinh sôi. Những “đoá cúc” do “em chủ động hái về, nhưng đến lượt nó, “cúc” gợi dậy trong “em” bao cảm giác, ước vọng, trở thành người nói hộ cho “em” tình yêu rộng mở đối với cuộc đời. “Bình gốm” như có trước để đợi hoa, nhưng mặt khác, “bình gốm”“cũng do hoa mà nảy sinh. Tất cả đều chờ đợi nhau, giục giã nhau để cùng cất tiếng reo vui ngợi ca mùa xuân, ngợi ca vẻ đẹp giao hoà, căng tràn nhựa sống của cả vũ trụ.
Câu 4 trang 12 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Chỉ ra những điệp ngữ được sử dụng trong bài và phân tích giá trị biểu đạt của những điệp ngữ đó.
Trả lời:
Bài thơ sử dụng thường xuyên biện pháp tu từ điệp ngữ, với việc lặp lại các cụm từ: chạm vào em? em gọi tên? chưa kịp; những (các) loài hoa? những trái cây; đang ngủ/ dưới (lớp) đất cày, (những) chiếc bình gốm Việc lặp lại các cụm từ ấy một mặt gợi lên tình trạng tồn tại song trùng của các sự vật, mặt khác, gợi lên dáng dấp cuống quýt, vội vã của nhân vật trữ tình muốn ôm vào mình tất cả những gì đang nảy nở tốt đẹp trong cuộc sống. Nói khái quát, biện pháp tu từ điệp ngữ đã giúp nhà thơ diễn tả rất đạt sự nhân lên trùng điệp của những hạt mầm sự sống cùng niềm vui luôn tăng cấp trước toàn bộ những gì đang phơi mở dưới các giác quan bén nhạy của nhà thơ.
Câu 5 trang 12 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Làm rõ sự thống nhất giữa hình thức thơ tự do và toàn bộ nội dung cảm xúc, liên tưởng, suy tưởng mà nhân vật trữ tình muốn bày tỏ.
Trả lời:
Có sự thống nhất cao độ giữa hình thức thơ tự do và toàn bộ nội dung cảm xúc, liên tưởng, suy tưởng mà nhân vật trữ tình muốn bày tỏ:
– Bài thơ được chia làm ba đoạn, số dòng ở mỗi đoạn không đều nhau. Sự cân đối hình thức bị phá vỡ cốt để dòng cảm xúc – suy tưởng của nhân vật trữ tình được bộc lộ tự nhiên nhất, không buộc phải độn lời, một khi điều cốt lõi đã được thể hiện.
– Dòng thơ có khi gồm 23 tiếng (dòng 3, 4 của đoạn 1), dài hơn hẳn các dòng khác, miễn sao nói được toàn bộ sự run rẩy, cuống quýt, hạnh phúc của nhân vật trữ tình trước bó hoa cúc tươi mát mới hái về cắm trong chiếc “bình gốm sẫm màu”.
– Nhịp ngắt trong từng dòng thơ không cố định, đã bảo lưu trọn vẹn ngữ điệu lời nói hết sức chân thật của nhân vật trữ tình.
– Các hình ảnh kết thành chuỗi liên tục, như tự mình xuất hiện không cần lời dẫn vòng vèo, gây ấn tượng rõ rệt về một sự mới mẻ tinh khôi, phù hợp với cảm quan về đời sống của nhân vật trữ tình.
Viết trang 13
Bài tập 1 trang 13 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) nêu suy nghĩ của bạn về tính hàm súc của ngôn ngữ thơ ca.
Trả lời:
Đoạn văn cần nói được các ý:
– Những biểu hiện cụ thể của tính hàm súc (chú ý dung lượng bài thơ, sự tiết giảm các chỉ tiết dẫn giải, sự khai thác triệt để tính đa nghĩa của ngôn từ,…).
– Hiệu quả tác động của lối viết hàm súc (gợi liên tưởng nhiều chiều, thôi thúc việc đọc lại bài thơ nhiều lần, gợi lên những cách tiếp cận và diễn giải khác nhau,…).
– Những cách xử lí khác nhau để bài thơ đạt tới sự hàm súc (trong thơ hai-cư, thơ Đường hay thơ hiện đại, sự hàm súc mang những sắc thái khác nhau, không hề đồng nhất).
* Đoạn văn mẫu tham khảo:
Tính hàm súc là đặc điểm chung của ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương, nhưng do đặc trưng của thể loại mà nó biểu hiện một cách tập trung với yêu cầu cao nhất trong ngôn ngữ thơ. So với nhiều thể loại khác thơ thường có dung lượng khiêm tốn hơn. Để phản ánh thế giới hiện thực muôn màu, thế giới tình cảm phức tạp của con người ngôn ngữ thơ phải thực sự hàm súc, là kết quả của sự chắt lọc công phu của người nghệ sĩ, Maiacopxki từng nhận đinh: “Làm thơ là cân một phần nghìn milligram quặng chữ” Một cách rõ ràng, tính hàm súc của ngôn ngữ thơ là lời ít ý nhiều, lời hết mà ý chưa cạn, nói như Lưu Trọng Lư, “một câu thơ hay là một câu thơ có sức gợi”. Tính hàm súc được người nghệ sĩ tạo ra theo nhiều cách riêng. Đó có thể là cách dùng từ sao cho đắt nhất, có giá trị biểu hiện cao nhất kiểu như Nguyễn Du đã “giết chết” các nhân vật Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Hồ Tôn Hiến, mỗi tên chỉ bằng một từ: cái vô học của Mã Giám Sinh – “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”, cái gian manh của Sở Khanh – “Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào”, cái tầm thường ti tiện của Hồ Tôn Hiến – “Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình”. Nói cách khác, hàm súc cũng có nghĩa là phải chính xác, giàu hình tượng, có tính truyền cảm và thể hiện cá tính của người nghệ sĩ dựa trên cơ sở vận dụng các thủ pháp nghệ thuật như ẩn dụ, so sánh… tạo nên nhiều lớp nghĩa cho câu thơ. Trong thơ Trung đại, tính hàm súc thường đến từ thủ pháp chấm phá, gợi tả. Nguyễn Du phác nên một bức tranh mùa xuân tươi sáng và đầy sức sống không cần nhiều hơn hai chi tiết: “Cỏ non xanh tận chân trời / Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Theo lẽ đó, thơ không có chỗ đứng cho hư từ mà chỉ có thực từ, trong thơ, ý phải tỏa vào lời, lời phải đỡ với ý, ý phải sâu nhưng lời cũng phải chặt. Một điều đáng nói là, tính hàm súc thường chỉ xuất hiện trong mực thước văn học truyền thống bởi tính chặt chẽ và quy phạm của từ ngữ, đến giai đoạn văn học đương đại, đặc điểm này bị đe dọa bởi sự dài dòng và nông cạn của một số tác giả. Nó đặt ra yêu cầu về sự cân bằng giữa truyền thống và hiện đại giữa hai thuộc tính này.
Bài tập 2 trang 13 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Chọn phân tích một bài thơ đã để lại ấn tượng đẹp đẽ cho bạn về thơ ca nói chung.
Trả lời:
* Dàn ý tham khảo phân tích bài thơ Mùa xuân chín (Hàn Mặc Tử)
* Mở bài
– Giới thiệu tác giả Hàn Mặc Tử: là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn và cũng là người tiên phong của dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam. Sinh thời, nhà thơ Chế Lan Viên từng nhận định: “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”.
– Giới thiệu khái quát bài thơ: Mùa xuân chín là được xếp ở phần Hương thơm trong tập thơ Đau thương. Cùng với Đây thôn Vĩ Dạ, Tình quê,… đây là những thi phẩm đầy thơ mộng viết về cảnh quê, tình quê của Hàn Mặc Tử.
* Thân bài:
– Dấu hiệu báo xuân sang:
+ Làn nắng ửng.
+ Làn khói mơ.
+ Mái nhà tranh bên giàn thiên lý.
→ Thanh tĩnh, bình dị, duyên dáng mà đằm thắm yêu thương.
– Cảnh vật thôn quê đẫm hơi xuân:
+ Làn mưa xuân tưới thêm sức sống.
+ Cỏ cây xanh tươi” gợn tới trời”.
+ Niềm vui của con người khi xuân đến.
– Niềm hạnh phúc của lứa đôi.
– Tiếng thơ ngây sao khiến lòng người bâng khuâng, xao xuyến.
→ Xuân mang vị “chín” của lòng người, của đời người.
* Kết bài: Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
3. Viết
Viết bài theo dàn ý đã lập.
* Bài viết tham khảo:
Hàn Mặc Tử: là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn và cũng là người tiên phong của dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam. Sinh thời, nhà thơ Chế Lan Viên từng nhận định: “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”. Thật vậy, trong làng Thơ mới, Hàn Mặc Tử là thi sĩ có diện mạo thơ vô cùng phong phú, sáng tạo và đầy bí ẩn. Bên cạnh những vần thơ điên, thơ say, thơ siêu thực là một giọng thơ trữ tình, đằm thắm, thể hiện tình yêu cuộc sống tha thiết, khao khát tình người đến cháy bỏng. Bài thơ “Mùa xuân chín” là một trong những bài thơ tiêu biểu cho giọng thơ ấy.
Hàn Mặc Tử, với cuộc đời ngắn ngủi, tâm hổn đa cảm, mong manh đã để lại cho đời những bài thơ rất đặc sắc. “Mùa xuân chín” là một trong số đó. Trong không gian của buổi giao mùạ, một góc tâm tình của tác giả: Nhớ làng, nhớ quê… và một cái gì đó rất mơ hồ, gợi trong lòng ta biết bao suy nghĩ. “Mùa xuân chín” một khoảng trời riêng của cảm xúc đang “chín” trong lòng nhà thơ, trong lòng người đọc.
Đọc tựa bài, ta hầu như đã cảm nhận được cái “ngon lành”, cái đỉnh cao tận cùng của “Mùa xuân chín”. Nếu có “xuân chín” thì hẳn cũng có “xuân xanh” ; “xuân già”. Nằm giữa ranh giới của cái “non trẻ”, cái “già nua”, “Mùa xuân chín” trở nên giá trị nhưng cũng ngắn ngủi, mong manh vô cùng. Để lòng say đắm trong giây phút hoàn hảo nhất của vũ trụ ấy thì còn gì bằng!
Trong tan nắng ửng: khói mơ tan,
Đôi mái nhà tranh lẫm tấm vàng.
“Nắng ửng”. Từ “ửng” mang một ý nghĩa đặc biệt. Ta có thể liên tưởng đến ngay cái “chín ửng” của quả đào, quả hồng, cái “ưng ửng” hây hây của đôi má các cô gái trong tiết lạnh đầu xuân. Cũng như vậy, xuân đang “chín” lên trong cái “ửng” của nắng. Dấu hai chấm sau đó nhắc nhở ta cái gì sẽ hiện nhiên xẩy ra như quả chín thì chuyển từ xanh sang hồng. Những làn khói sương tan trong nắng, lượn lờ, bồng bềnh nâng tâm hồn thi sĩ lên khỏi mặt đất, khỏi thực tại, bước vào cõi “mơ”. “Đôi mùi nhả tranh lẫm tấm vàng”. Những “lấm tấm vàng” đó là hạt nắng hay chính là những ảo ảnh trong đôi mắt của người đang say Không phải cái say “quên trời, quên đất”, cái say của nhà thơ là những phút giây đắm chìm, mê mải, chăm chú, cả âm thanh, cả hình ảnh, màu sắc cũng hòa làm một: khói tan, mái nhà lấm tấm vàng, gió sột soạt tà áo, giàn thiên lí. Đó là “bóng xuân”. Chỉ là “bóng”, rất mơ hồ, huyền ảo, mùa xuân cô gái đẹp, đẹp như trong mơ, đẹp như quả chín, đẹp hoàn hảo lướt qua trong tâm hồn nhà thơ.
“Bao cô thôn nữ hát trên đồi”. Tiếng hát của những cô gái đánh thức Hàn Mặc Tử, đưa nhà thơ trở lại với thực tại. Toàn khổ thơ là tâm trạng tiếc nuối, ngậm ngùi : “Ngày mai trong đám xuân xanh ấy/ Có kẻ theo chồng bò cuộc chơi…”
Nhà thơ nghĩ đến ngày mai đây, cảnh vật, con người sẽ đỗi khác, những cô gái sẽ không còn những giây phút hồn nhiên, vô tư ca hát với mùa xuân, cũng như xuân rồi cũng sẻ qua, xuân chín rồi thì xuân sẽ tàn. Tâm hồn đa cảm ấy, không thể không rung lên xúc động. Đám xuân xanh ấy Mùa xuân tươi đẹp của đời người, cũng là mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên mà thi sĩ vẽ ra trước mắt người đọc làm ta không khỏi suy tư. Thế thì ta hãy tận hưởng cho hết những giờ khắc tuyệt vời ấy.
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi ,
Hổn hển như lời của nước máy…
Thầm thi với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây…
Trí tưởng tượng của tác giả đã lên đến tột độ, tiếng hát thánh thót như đang vắt vẻo lưng chừng núi, đang hổn hển như lời của nước máy. Những âm thanh không bay cao, bay xa mà vẫn thầm thì với ai ngồi dưới trúc. Từ ai rối rắm nghịch lý ấy cho ta thấy những cảm xúc vô cùng tinh tế trong tâm hồn thi sĩ. Tiếng hát bay khắp không gian, thi sĩ thulại chỉ riêng cho ai. Chính là mình rồi tự thốt lên: “Nghe ra ý vị và thơ ngây”
Có mấy ai cảm nhận hết cả đất trời như vậy! Nghĩ đến đất trời, về những cuộc đổi thay, về mùa xuân, tác giả lại nghĩ về mình Khác xa gặp lúc mùa xuân chín
Thì ra mình chỉ là một người tha phương, lẻ loi, cô độc gặp Mùa xuân chín mới có được giây phút ấm lòng. Hàn Mặc Tử nhớ về làng xưa trí bâng khuâng sực nhớ làng.
Cái sực nhớ bất ngờ, dồn dập, tên tác giả, cái têu mà cha mẹ anh em vẫn gọi đối với Hàn Mặc Tử thân thương biết mấy, gần gũi biết mấy. Ngẫu nhiên, đó cũng là một từ rất phú hợp với nỗi nhớ của tác giả. Nhớ về quê xưa, hình ảnh đầu tiên đến với cái sực nhớ của tác giả là hình ảnh của người con gái. Chị ấy là chị ruột, chị họ hàng hay chí là một người quen hay là…? Ta không thể biết được. Nhưng ta hiểu được rằng tác giả đã dành sẵn một tình cảm rất trân trọng, rất tha thiết cho người con gái ấy. Tại sao hình ảnh đầu tiên mà tác giả nhớ không phải là cha mẹ, anh em, mái nhà xưa? Bởi vì đây là cái sực nhớ, điều mà ý thức không kiêm soát được mà là của con tim đang dồn dập, nóng bỏng vì nỗi nhớ điều khiển. Những từ, tiếng vần liền trắng, nắng, chang chang tạo cho người đọc cảm giác rõ rệt về một bờ sông cát trắng, nắng chói rất thật rất rõ ràng tạo thành hình ảnh con người thật đẹp.
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang
Mùa xuân luôn là cảm hứng của bao nhiêu thi sĩ. Thế nhưng trong Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử vẫn rất đặc sắc vẫn rất sâu đậm, không những chỉ có Mùa xuân chín mà còn chín cả lòng người thi sỉ, chín cả nỗi nhớ làng, nhớ người xưa trong thơ Hàn Mặc Tử.
Bài thơ dạt dào cảm xúc khiến lòng người bâng khuâng. Với tâm hồn lãng mạn cùng những lời thơ trữ tình đặc sắc, Hàn Mặc Tử đã để lại cho đời một bức tranh xuân, một hình ảnh xuân một nét xuân đầm thắm dịu dàng. Người thì đã đi xa nhưng tình người còn vương vấn mãi. Bài thơ ấy cùng với cái tôi Hàn Mặc Tử vẫn tồn tại muôn đời.
Nói và Nghe trang 13
Bài tập 1 trang 13 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Từng có một quan niệm khá phổ biến cho rằng vẻ đẹp của thơ chỉ có thể cảm nhận chứ không thể phân tích.
Hãy lập dàn ý cho bài nói thể hiện ý kiến của bạn về quan niệm nói trên.
Trả lời:
* Dàn ý bài nói:
– Mở đầu: Giới thiệu ý kiến: Từng có một quan niệm khá phổ biến cho rằng vẻ đẹp của thơ chỉ có thể cảm nhận chứ không thể phân tích
– Trung tâm:
+ Quan niệm cho rằng vẻ đẹp của thơ chỉ có thể cảm nhận chứ không thể phân tích có liên quan tới niềm tin về nguồn gốc thần bí của thơ ca, về năng lực cũng như cơ chế sáng tạo đặc biệt của nhà thơ.
+ Quan niệm nêu trên được xây dựng trên cơ sở đối lập hoạt động cảm nhận với hoạt động phân tích, mặc nhiên nhìn nhận phân tích là hoạt động thuần lí trí, không cần thâu nạp các dữ kiện của cảm nhận hoặc ngược lại, cho cảm nhận chỉ là hoạt động của trực giác, tình cảm thuần tuý chứ không liên quan gì tới sự phân tích.
+ Quan niệm trên có thể dẫn tới việc coi nhẹ vai trò của hoạt động phê bình thơ và vô tình khuyến khích việc nêu cảm nhận tuỳ tiện, không dựa trên những căn cứ, tiêu chí khoa học.
– Kết luận: Đánh giá, kết luận của bản thân.
Bài tập 2 trang 13 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Một tác phẩm được gọi là thơ phải đảm bảo những điều kiện gì? Nếu được tham gia một cuộc thảo luận bàn về vấn để này, bạn dự kiến sẽ nói những ý cơ bản nào?
Trả lời:
Khi tham gia cuộc thảo luận bàn về vấn đề này, bạn cần đọc lại phần Tri thức ngữ văn của bài học, nhớ lại những điều đã được tìm hiểu, phân tích khi học về các bài thơ có trong SGK. Để tìm ý, bạn có thể trả lời những câu hỏi như:
– Phải chăng vần là yếu tố bắt buộc phải có trong thơ?
– Một bài thơ ít quan tâm tới vấn đề tổ chức nhịp điệu sẽ có diện mạo thế nào?
– Yếu tố tình cảm, cảm xúc đóng vai trò gì trong thơ?
– Hình ảnh trong thơ có ý nghĩa đặc biệt ra sao?
– Có thể nói gì về mối quan hệ giữa các yếu tố tình, cảnh, sự trong bài thơ?
– Việc triển khai bài thơ cần được thực hiện như thế nào?
* Bài nói mẫu tham khảo:
Bài nói mẫu tham khảo: >
Kính chào thầy cô và các bạn. Tôi tên là…………học sinh………trường………
Trước một tác phẩm thơ, mỗi người đọc có thể có những cảm nhận, quan điểm riêng biệt, những đánh giá về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm đó. Đến với bài nói ngày hôm nay tôi xin giới thiệu, đánh giá về nội dung, nghệ thuật bài thơ “ Mùa xuân chín” của nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Hàn Mặc Tử: là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn và cũng là người tiên phong của dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam. Sinh thời, nhà thơ Chế Lan Viên từng nhận định: “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”. Thật vậy, trong làng Thơ mới, Hàn Mặc Tử là thi sĩ có diện mạo thơ vô cùng phong phú, sáng tạo và đầy bí ẩn. Bên cạnh những vần thơ điên, thơ say, thơ siêu thực là một giọng thơ trữ tình, đằm thắm, thể hiện tình yêu cuộc sống tha thiết, khao khát tình người đến cháy bỏng. Bài thơ “Mùa xuân chín” là một trong những bài thơ tiêu biểu cho giọng thơ ấy.
Hàn Mặc Tử, với cuộc đời ngắn ngủi, tâm hổn đa cảm, mong manh đã để lại cho đời những bài thơ rất đặc sắc. “Mùa xuân chín” là một trong số đó. Trong không gian của buổi giao mùạ, một góc tâm tình của tác giả: Nhớ làng, nhớ quê… và một cái gì đó rất mơ hồ, gợi trong lòng ta biết bao suy nghĩ. “Mùa xuân chín” một khoảng trời riêng của cảm xúc đang “chín” trong lòng nhà thơ, trong lòng người đọc.
Đọc tựa bài, ta hầu như đã cảm nhận được cái “ngon lành”, cái đỉnh cao tận cùng của “Mùa xuân chín”. Nếu có “xuân chín” thì hẳn cũng có “xuân xanh” ; “xuân già”. Nằm giữa ranh giới của cái “non trẻ”, cái “già nua”, “Mùa xuân chín” trở nên giá trị nhưng cũng ngắn ngủi, mong manh vô cùng. Để lòng say đắm trong giây phút hoàn hảo nhất của vũ trụ ấy thì còn gì bằng!
Trong tan nắng ửng: khói mơ tan,
Đôi mái nhà tranh lẫm tấm vàng.
“Nắng ửng”. Từ “ửng” mang một ý nghĩa đặc biệt. Ta có thể liên tưởng đến ngay cái “chín ửng” của quả đào, quả hồng, cái “ưng ửng” hây hây của đôi má các cô gái trong tiết lạnh đầu xuân. Cũng như vậy, xuân đang “chín” lên trong cái “ửng” của nắng. Dấu hai chấm sau đó nhắc nhở ta cái gì sẽ hiện nhiên xẩy ra như quả chín thì chuyển từ xanh sang hồng. Những làn khói sương tan trong nắng, lượn lờ, bồng bềnh nâng tâm hồn thi sĩ lên khỏi mặt đất, khỏi thực tại, bước vào cõi “mơ”. “Đôi mùi nhả tranh lẫm tấm vàng”. Những “lấm tấm vàng” đó là hạt nắng hay chính là những ảo ảnh trong đôi mắt của người đang say Không phải cái say “quên trời, quên đất”, cái say của nhà thơ là những phút giây đắm chìm, mê mải, chăm chú, cả âm thanh, cả hình ảnh, màu sắc cũng hòa làm một: khói tan, mái nhà lấm tấm vàng, gió sột soạt tà áo, giàn thiên lí. Đó là “bóng xuân”. Chỉ là “bóng”, rất mơ hồ, huyền ảo, mùa xuân cô gái đẹp, đẹp như trong mơ, đẹp như quả chín, đẹp hoàn hảo lướt qua trong tâm hồn nhà thơ.
“Bao cô thôn nữ hát trên đồi”. Tiếng hát của những cô gái đánh thức Hàn Mặc Tử, đưa nhà thơ trở lại với thực tại. Toàn khổ thơ là tâm trạng tiếc nuối, ngậm ngùi : “Ngày mai trong đám xuân xanh ấy/ Có kẻ theo chồng bò cuộc chơi…”
Nhà thơ nghĩ đến ngày mai đây, cảnh vật, con người sẽ đỗi khác, những cô gái sẽ không còn những giây phút hồn nhiên, vô tư ca hát với mùa xuân, cũng như xuân rồi cũng sẻ qua, “xuân chín” rồi thì xuân sẽ tàn. Tâm hồn đa cảm ấy, không thể không rung lên xúc động. “Đám xuân xanh ấy” Mùa xuân tươi đẹp của đời người, cũng là mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên mà thi sĩ vẽ ra trước mắt người đọc làm ta không khỏi suy tư. Thế thì ta hãy tận hưởng cho hết những giờ khắc tuyệt vời ấy.
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi ,
Hổn hển như lời của nước máy…
Thầm thi với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây…
Trí tưởng tượng của tác giả đã lên đến tột độ, tiếng hát thánh thót như đang “vắt vẻo lưng chừng núi”, đang “hổn hển như lời của nước máy”. Những âm thanh không bay cao, bay xa mà vẫn “thầm thì với ai ngồi dưới trúc”. Từ “ai” rối rắm nghịch lý ấy cho ta thấy những cảm xúc vô cùng tinh tế trong tâm hồn thi sĩ. Tiếng hát bay khắp không gian, thi sĩ “thu”lại chỉ riêng cho “ai”. Chính là mình rồi tự thốt lên: “Nghe ra ý vị và thơ ngây”
Có mấy ai cảm nhận hết cả đất trời như vậy! Nghĩ đến đất trời, về những cuộc đổi thay, về mùa xuân, tác giả lại nghĩ về mình Khác xa gặp lúc mùa xuân chín. Thì ra mình chỉ là một người tha phương, lẻ loi, cô độc gặp “Mùa xuân chín” mới có được giây phút ấm lòng. Hàn Mặc Tử nhớ về làng xưa trí bâng khuâng sực nhớ làng”.
Cái “sực nhớ” bất ngờ, dồn dập, tên tác giả, cái têu mà cha mẹ anh em vẫn gọi đối với Hàn Mặc Tử thân thương biết mấy, gần gũi biết mấy. Ngẫu nhiên, đó cũng là một từ rất phú hợp với nỗi nhớ của tác giả. Nhớ về quê xưa, hình ảnh đầu tiên đến với cái “sực nhớ” của tác giả là hình ảnh của người con gái. “Chị ấy” là chị ruột, chị họ hàng hay chí là một người quen hay là…? Ta không thể biết được. Nhưng ta hiểu được rằng tác giả đã dành sẵn một tình cảm rất trân trọng, rất tha thiết cho người con gái ấy. Tại sao hình ảnh đầu tiên mà tác giả nhớ không phải là cha mẹ, anh em, mái nhà xưa? Bởi vì đây là cái “sực nhớ”, điều mà ý thức không kiêm soát được mà là của con tim đang dồn dập, nóng bỏng vì nỗi nhớ điều khiển. Những từ, tiếng vần liền “trắng, nắng”, “chang chang” tạo cho người đọc cảm giác rõ rệt về một bờ sông cát trắng, nắng chói rất thật rất rõ ràng tạo thành hình ảnh con người thật đẹp.
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang
Mùa xuân luôn là cảm hứng của bao nhiêu thi sĩ. Thế nhưng trong “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử vẫn rất đặc sắc vẫn rất sâu đậm, không những chỉ có “Mùa xuân chín” mà còn “chín” cả lòng người thi sỉ, “chín” cả nỗi nhớ làng, nhớ người xưa trong thơ Hàn Mặc Tử.
Bài thơ dạt dào cảm xúc khiến lòng người bâng khuâng. Với tâm hồn lãng mạn cùng những lời thơ trữ tình đặc sắc, Hàn Mặc Tử đã để lại cho đời một bức tranh xuân, một hình ảnh xuân một nét xuân đầm thắm dịu dàng. Người thì đã đi xa nhưng tình người còn vương vấn mãi. Bài thơ ấy cùng với cái tôi Hàn Mặc Tử vẫn tồn tại muôn đời.
Cảm ơn thầy cô và các bạn đã lắng nghe. Tôi rất vinh hạnh nếu được nghe chia sẻ giới thiệu, đánh giá về nội dung, nghệ thuật của nhiều những tác phẩm thơ khác mà mọi người quan tâm.
Xem thêm các bài giải SBT Ngữ văn lớp 10 Kết nối tri thức hay, chi tiết khác:
Bài 1: Sức hấp dẫn của truyện kể
Bài 2: Vẻ đẹp của thơ ca
Bài 3: Nghệ thuật thuyết phục trong văn nghị luận
Bài 4: Sức sống của sử thi
Bài 5: Tích trò sân khấu dân gian