Mời quí bạn đọc tải xuống để xem đầy đủ tài liệu Soạn bài Lượm ngắn nhất:
Lượm
1. Chuẩn bị
Câu hỏi trang 32 SGK Ngữ Văn 6 – Tập 2: Đọc trước bài thơ Lượm, tìm hiểu thêm về tác giả Tố Hữu và hoàn cảnh ra đời của bài thơ này,
Tác giả Tố Hữu
Tiểu sử:
– Tố Hữu tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành.
– Sinh ngày 4 tháng 10 năm 1920 tại Thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, là con út trong gia đình. Cha ông là một nhà nho nghèo, không đỗ đạt và phải kiếm sống rất chật vật nhưng lại thích thơ, thích sưu tập ca dao tục ngữ. Ông đã dạy Tố Hữu làm thơ cổ. Mẹ ông cũng là con của một nhà nho, thuộc nhiều ca dao dân ca Huế và rất thương con. Cha mẹ đã góp phần nuôi dưỡng tâm hồn thơ Tố Hữu.
Hoạt động cách mạng
– Năm 1938, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 4/1939, ông bị bắt, bị tra tấn dã man và đày đi nhà lao Thừa Phủ (Huế) rồi chuyển sang nhà tù Lao Bảo (Quảng Trị) và nhiều nhà tù khác ở Tây Nguyên.
– 3/1942, ông vượt ngục Đắc Glêi (nay thuộc Kon Tum) rồi tìm ra Thanh Hóa, bắt liên lạc với Đảng (về hoạt động bí mật ở huyện Hậu Lộc và thôn Tâm Quy, xã Hà Tân, huyện Hà Trung, Thanh Hóa).
– Đến năm 1945, khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, ông được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Thừa Thiên – Huế.
– Năm 1946, ông là Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa. Cuối 1947, ông lên Việt Bắc làm công tác văn nghệ, tuyên huấn. Từ đó, ông được giao những chức vụ quan trọng trong công tác văn nghệ, trong bộ máy lãnh đạo Đảng và nhà nước
Sự nghiệp văn học và các tập thơ sáng tác tiêu biểu
– Ở Tố Hữu có sự thống nhất đẹp đẽ giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ, giữa lý tưởng trong trái tim và những câu thơ trên đầu bút. Chặng đường thơ của Tố Hữu là chặng đường lịch sử của cả một dân tộc. Ông được coi là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng và kháng chiến, được tôn vinh là “nhà thơ của cách mạng”, “nhà thơ của nhân dân”, “ngọn cờ chiến đấu của thơ ca cách mạng Việt Nam”, “người có công đầu xây dựng nền thơ ca cách mạng Việt Nam”, “một cuộc đời trọn vẹn với Cách mạng – Nghệ thuật – Tình yêu”, “nhà thơ của chủ nghĩa nhân văn cách mạng”.
các sáng tác tiêu biểu:
– Các tập thơ tiêu biểu Từ ấy (1937 – 1946), 72 bài thơ/ Việt Bắc (1947 – 1954), 26 bài thơ/ Gió lộng (1955 – 1961), 25 bài thơ/ Ra trận (1962 – 1971), 35 bài thơ
– Các bài thơ tiêu biểu: Từ ấy, Lượm, Bầm ơi, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên.
* Hoàn cảnh ra đời của bài thơ Lượm
– Lượm được nhà thơ Tố Hữu viết năm 1949 – trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp và in trong tập Việt Bắc.
– Vào tháng 12 năm 1946 đã nổ ra trận chiến giữa quân ta và giặc Pháp tại Huế. Đến tháng 2 năm 1947, mặt trận tại Huế bị tan vỡ, quân ta di chuyển lên chiến khu và đổi sang lối đánh du kích. Lúc đó, nhà thơ Tố Hữu từ Hà Nội trở về Huế để phục vụ kháng chiến. Tình cờ trên đường đi, nhà thơ được gặp Lượm – một cậu bé liên lạc nhỏ tuổi, nhanh nhẹn, thông minh, trong sáng. Ít lâu sau, nhà thơ nghe tin Lượm đã anh dũng hi sinh trên đường đi đưa thư. Vô cùng xúc động trước sự hi sinh của em, nhà thơ Tố Hữu đã viết nên bài thơ Lượm.
Câu hỏi trang 32 SGK Ngữ Văn 6 – Tập 2: Tìm hiểu một số nhân vật thiếu niên dũng cảm đã được nói tới trong các câu chuyện lịch sử và văn học.
Trả lời:
– Người anh hùng Kim Đồng
Người thiếu niên dũng cảm – Anh hùng Kim Đồng
(11/12/2018)
Kim Đồng tên thật là Nông Văn Dền, người dân tộc Nùng, quê ở thôn Nà Mạ, xã Xuân Hòa (nay là Trường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng. Anh là một trong 5 đội viên đầu tiên của Đội nhi đồng Cứu quốc thôn Nà Mạ và cũng là tổ chức Đội đầu tiên của Đội ta được thành lập khi mặt trận Việt Minh ra đời (1941).Trong buổi thành lập Đội, Kim Đồng được bầu làm tổ trưởng. Kim Đồng là con trai út của một gia đình nông dân nghèo. Bố mất sớm. Anh trai tham gia cách mạng và hy sinh khi còn trẻ.
Từ năm 1940, ở quê Dền đã có phong trào cách mạng. Dền được anh trai và anh cán bộ như anh Đức Thanh giác ngộ cách mạng. Dền đã theo các anh làm các công việc: canh gác, chuyển thư từ, nghe nói chuyện về tội ác của quân giặc… nhờ đó Dền đã sớm giác ngộ cách mạng và trở thành một liên lạc viên tin cậy của tổ chức Đảng. Dền đã mau chóng làm quen với cách thức làm công tác bí mật, nhiều lần đưa, chuyển thư từ, đưa đường cho cán bộ lọt qua sự bao vây, canh gác của địch.
Năm 1941, Bác Hồ về Pắc Pó, Kim Đồng từng được gặp Bác ở căn cứ cách mạng. Bước sang năm 1943, bọn địch khủng bố, đánh phá dữ dội vùng Pắc Pó. Trong một lần đi liên lạc về, giữa đường gặp lính địch phục kích gần nơi có cán bộ của ta, Kim Đồng đã nhanh trí nhử cho bọn địch nổ súng về phía mình. Nhờ tiếng súng báo động ấy, các đồng chí cán bộ ở gần đó tránh thoát lên rừng. Song, Kim Đồng đã bị trúng đạn và anh dũng hy sinh tại chỗ, ngay bờ suối Lê-nin.
Hôm ấy là ngày 11 tháng giêng Âm lịch năm 1943, Anh vừa tròn 14 tuổi. Ngày nay, mộ của Kim Đồng đã được đội viên cả nước góp phần xây dựng tại nơi anh ngã xuống. Ngày 15-5-1986, nhân kỷ niệm lần thứ 45 ngày thành lập Đội, mộ của Anh và tượng người đội viên liệt sĩ anh hùng Kim Đồng đang tung con chim sáo bay lên đã được khánh thành. Từ đó đến nay nơi đây đã trở thành khu di tích Kim Đồng chào đón các thế hệ thiếu nhi Việt Nam đến nơi thành lập Đội TNTP, với người đội trưởng đầu tiên của mình, đến với quê hương cách mạng có suối Lê-nin, có núi Các Mác và hang Pắc Pó mãi mãi khắc sâu trong tâm trí của thiếu nhi Việt Nam.
Nguồn: Sưu tầm
– Nữ anh hùng trẻ tuổi Võ Thị Sáu
Chuyện kể nữ anh hùng Võ Thị Sáu
Võ Thị Sáu – một người con gái sinh ra ở vùng Đất Đỏ thuộc vùng Long Đất, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu của nước Việt Nam ta ngày nay. Chị sinh năm 1933, là người con gái vô cùng thông minh, mưu trí, có tinh thần yêu nước và dũng cảm. Dù tuổi đời còn rất nhỏ nhưng chị đã tham gia làm liên lạc viên cho đoàn quân cách mạng của chúng ta và lập được rất nhiều chiến công hiển hách đáng khen thưởng.
Năm 1948, chị được cấp trên giao cho nhiệm vụ vô cùng quan trọng đó chính là phải đánh phá một buổi lễ mít tinh nhằm kỷ niệm ngày chào mừng Quốc khánh của thực dân Pháp để gây nhiễu loạn và phá hoại âm mưu của kẻ thù. Tại buổi lễ mít tinh đó chị Võ Thị Sáu đã tung lựu đạn vào khán đài có tỉnh trưởng Lê Thành Trường – một lãnh đạo cấp cao của bè lũ tay sai cho thực dân Pháp để giải tán đám đông. Chính chiến công này đã giúp cho chị Võ Thị Sáu của chúng ta lập thêm nhiều chiến công khác oanh liệt hơn.
Sau đó, chị Võ Thị Sáu được cơ quan trung ương Đảng giao cho nhiệm vụ tiêu diệt kẻ gian tế, nên tháng 2 năm 1950 trong khi đi làm nhiệm vụ chị đã bị kẻ thù bắt giữ. Bọn giặc ngoại xâm đã tra tấn chị Võ Thị Sáu của chúng ta vô cùng dã man, bắt chị khai ra những đồng đội của mình. Nhưng chị anh dũng kiên quyết không khai chúng dùng nhiều thủ đoạn tra tấn tàn bạo như dùng dùi điện cho điện giật vào người chị, hay dùng dùi nung lửa nóng khoan lên người chị…Nhưng mọi hình thức tra tấn dã man thời trung cổ đó càng làm chị thêm căm hận kẻ thù chị kiên quyết không hé răng nửa lời.
Cuối cùng không làm được gì chị Võ Thị Sáu chúng buộc lòng đày chị ra Côn Đảo là nơi chuyên giam giữ và đày đọa những người tù chính trị của nước ta, là nấm mồ chôn thân của rất nhiều người anh hùng cách mạng của dân tộc Việt Nam ta.
Tới ngày 23/1/1952, chị Võ Thị Sáu anh hùng của chúng ta bị mang ra pháp trường xử tử khi tuổi đời chỉ tròn mười chín tuổi. Cho tới sau này khi đất nước chúng ta hoàn toàn sạch bóng kẻ thù năm 1993 chị Võ Thị Sáu được phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân, là một trong những chiến sĩ vô cùng trẻ tuổi của ta được vinh danh thiên cổ.
Tấm gương của chị Võ Thị Sáu làm cho chúng em vô cùng ngưỡng mộ, kính trọng vì những gì chị đã hy sinh cho quê hương, tổ quốc để chúng em hôm nay được hưởng cuộc sống thái bình.
Nguồn: Sưu tầm
2. Đọc hiểu
a. Trong khi đọc
Câu hỏi trang 33 SGK Ngữ Văn 6 – Tập 2: Chú ý cách ngắt nhịp và biện pháp tu từ trong khổ thơ thứ nhất.
Trả lời:
Chú ý cách ngắt nhịp và biện pháp tu từ trong khổ thơ thứ nhất:
Ngày Huế// đổ máu
Chú Hà Nội về//
Tình cờ // chú, cháu
Gặp nhau // Hàng Bè
– Biện pháp tu từ hoán dụ: “Ngày Huế đổ máu”
Ở đây “đổ máu” hoán dụ cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp khốc liệt, gian nan, bom đạn xảy ra ở Huế khi chúng quay trở lại xâm lược (năm 1947)
Câu hỏi trang 33 SGK Ngữ Văn 6 – Tập 2: Tìm và chỉ ra tác dụng của các từ láy trong các dòng thơ 5-8
Trả lời:
– Các từ láy: loắt choắt, xinh xinh, thoăn thoắt, nghênh nghênh.
→ Tác dụng: Các từ láy có tác dụng nhằm miêu tả cụ thể, sinh động ngoại hình, dáng điệu và cử chỉ của chú bị Lượm, một em bé liên lạc hồn nhiên, vui tươi, say mê tham gia công tác kháng chiến thật đáng mến, đáng yêu.
Câu hỏi trang 33 SGK Ngữ Văn 6 – Tập 2: Chỉ ra tác dụng của các biện pháp tu từ trong các dòng thơ 10-12
Trả lời:
– Phép tu từ so sánh” mồm huýt sáo vang- như con chim chích nhảy trên đường vàng”
→ Tác dụng: Gợi hình, gợi tả giúp hình ảnh chú bé đi liên lạc trở nên vui vẻ, hăng say, tươi tắn, đi làm nhiệm vụ nhưng rất lạc quan yêu đời.
Câu hỏi trang 33 SGK Ngữ Văn 6 – Tập 2: Ngoại hình và tính cách của chú bé liên lạc được thể hiện qua các bức tranh minh họa này thế nào?
Trả lời:
* Ngoại hình
– Lượm là một cậu bé thanh mảnh, nhỏ nhắn.
– Cậu có đôi chân thật nhanh nhẹn.
– Lượm luôn đội chiếc mũ ca lô trên đầu, lệch về một phía trông thật ngộ nghĩnh và đáng yêu.
– Chú liên lạc này luôn đeo một cái xắc xinh xinh trên vai trông rất ra dáng “cán bộ”. Đó cũng là một cậu bé rất yêu đời.
→ Lượm rất lạc quan trong khi làm nhiệm vụ.
* Tính cách, phẩm chất:
– Vui vẻ, yêu đời, lúc nào cũng hát ca khi làm nhiệm vụ.
– Dũng cảm, không sợ nguy hiểm vượt qua bom đạn để đưa những bức thư khẩn cực kỳ quan trọng cho các đơn vị khác.
– Nguyện hi sinh vì đất nước
→ Lạc quan yêu đời, sẵn sàng hi sinh vì tổ quốc.
Câu hỏi trang 34 SGK Ngữ Văn 6 – Tập 2: Khổ thơ ( dòng 25-26) có gì đặc biệt so với các khổ khác?
Trả lời:
– Đây là khổ thơ đặc biệt chỉ có 2 dòng thơ, mỗi dòng chủ có 2 tiếng.
– 2 câu này thuộc kiểu câu đặc biệt
→ Thể hiện niềm thương xót, nghẹn ngào của tác giả khi biết Lượm đã hi sinh trong một lần làm nhiệm vụ.
Câu hỏi trang 34 SGK Ngữ Văn 6 – Tập 2: Cách ngắt nhịp trong khổ thơ ( dòng 39-42) có gì đặc biệt?
Trả lời:
– Cách ngắt nhịp trong khổ thơ là:
Bỗng lòe// Chớp đỏ
Thôi rồi// Lượm ơi
Chú đồng chí//nhỏ
Một dòng// máu tươi.
– Cách ngắt nhịp trong khổ thơ thể hiện tậm trạng nghẹn ngào, đau đớn, đau xót trước sự hi sinh của Lượm
Câu hỏi trang 35 SGK Ngữ Văn 6 – Tập 2: Câu hỏi dùng 47 có ý nghĩa gì?
Trả lời:
Câu thơ: “Lượm ơi, còn không?” được đặt ở gần cuối bài thơ để bộc lộ cảm xúc và khẳng định. Từ đó:
+ Bộc lộ cảm xúc: Tiếc thương, đau xót trước sự hi sinh của Lượm.
+ Câu hỏi còn bộc lộ sự ngỡ ngàng như chưa kịp tin vào sự thật Lượm đã hi sinh.
b. Sau khi đọc
Câu 1 trang 35 SGK Ngữ Văn 6 – Tập 2: Kể lại câu chuyện trong bài thơ dựa theo trật tự thời gian (khoảng 10 dòng).
Trả lời:
Năm đó tôi trở lại Huế vì Pháp đã quay trở lại Huế tấn công, tôi là thành viên trong đội thanh niên xung kích vào đó. Tình cờ trên con đường Hàng Bè tôi quen được Lượm, một cậu bé giao liên làm nhiệm vụ vận chuyển điện tín mật ở đồn Mang Cá. Cậu bé loắt choắt, da sạm nắng, trên đầu là chiếc mũ ca nô đội lệch, trông mới tinh nghịch làm sao, luôn cười, phô hàm răng trắng đều, sải bước thật nhanh về phía tôi, hai tay dang rộng, chiếc xắc cốt nhún nhảy trên lưng theo nhịp bước. Và rồi vào một ngày hè sau đó, tôi bàng hoàng khi nhận được tin Lượm đã hi sinh trong một trận tấn công đồn giặc. Tôi nghe kể lại rằng giữa lúc cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, Lượm nhận nhiệm vụ chuyển thư thượng khẩn ra mặt trận và hi sinh trên mặt trận đầy bom đạn. Ôi thật đáng thương, tôi mong rằng chiến tranh hãy thật nhanh kết thúc để không còn một ai phải hi sinh như vậy nữa.
Câu 2 trang 35 SGK Ngữ Văn 6 – Tập 2: Đọc các khổ thơ: 2, 3, 4, 5, lập bảng sau vào vở và điền các chi tiết miêu tả Lượm phù hợp vào các cột.
Trang phục |
|
Hình dáng |
|
Cử chỉ hành động |
|
Lời nói |
|
Trả lời:
2.
Trang phục |
Đội mũ ca lô lệch về một bên, đeo cái xắc xinh xinh |
Hình dáng |
Nhỏ nhắn,loắt choắt, thoăn thoắt, đầu nghênh nghênh nhanh, má đỏ bồ quân. |
Cử chỉ hành động |
Huýt sao vang, yêu đời. |
Lời nói |
– Cháu đi liên lạc Vui lắm chú à Ở đồn Mang Cá Thích hơn ở nhà |
Câu 3 trang 35 SGK Ngữ Văn 6 – Tập 2: Theo em, tại sao các dòng thơ 25, 26, 47 được tách ra thành những khổ thơ riêng?
Trả lời:
– Theo em, các câu thơ đó được tách riêng vì đó là dòng cảm xúc lắng đọng lại của tác giả khi biết tin Lượm đã hi sinh, thể hiện sự tiếc nuối, ngầm ngùi, không muốn tin vào sự thật của tác giả
Câu 4 trang 35 SGK Ngữ Văn 6 – Tập 2: Trong tác phẩm, tác giả gọi Lượm bằng nhiều từ ngữ xưng hô khác nhau. Hãy tìm và cho biết mỗi từ ngữ đó thể hiện thái độ và tình cảm gì?
Trả lời:
– Trong bài thơ, người kể chuyện đã gọi Lượm bằng nhiều từ xưng hô khác nhau: Cháu, chú bé, Lượm, Chú đồng chí nhỏ.
– Việc lựa chọn những từ ngữ xưng hô đó cho thấy tình cảm yêu thương, quý mến và trân trọng, cảm phục của tác giả dành cho Lượm. Với tác giả Lượm vừa là đứa cháu nhỏ đáng yêu và cũng là một người đồng chí, đồng đội trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Câu 5 trang 36 SGK Ngữ Văn 6 – Tập 2: Bài thơ kết thúc bằng việc lặp lại những dòng thơ miêu tả hình Lượm vẫn như ngày đầu có ý nghĩa gì?
Trả lời:
Bài thơ kết thúc bằng việc lặp lại những dòng thơ miêu tả hình Lượm vẫn như ngày đầu có ý nghĩa thể hiện sự hồi tưởng, nhớ nhung của tác tác giả về Lượm, đồng thời muốn khẳng định rằng em sẽ không chết, không bao giờ biến mất vĩnh viễn mà sẽ sống mãi trong lòng tác giả và mỗi chúng ta.
Câu 6 trang 36 SGK Ngữ Văn 6 – Tập 2: Trong cuộc sống và trong tác phẩm văn học có rất nhiều tấm gương thiếu niên dũng cảm như nhân vật Lượm; hãy viết 3-4 dòng giới thiệu về một thiếu niên dũng cảm mà em biết
Trả lời:
Kim Đồng tên thật là Nông Văn Dền, người dân tộc Nùng, quê ở thôn Nà Mạ, xã Xuân Hòa (nay là Trường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng. Anh là một trong 5 đội viên đầu tiên của Đội nhi đồng Cứu quốc thôn Nà Mạ và cũng là tổ chức Đội đầu tiên của Đội ta được thành lập khi mặt trận Việt Minh ra đời (1941).Trong buổi thành lập Đội, Kim Đồng được bầu làm tổ trưởng. Kim Đồng là con trai út của một gia đình nông dân nghèo. Bố mất sớm. Anh trai tham gia cách mạng và hy sinh khi còn trẻ. Em rất từ hào và cảm phục trước tinh thần chiến đấu bất khuất của anh Kim Đồng.