Soạn bài Phân tích một tác phẩm thơ
1. Định hướng
1.1. Phân tích một tác phẩm thơ là nội dung đã được học ở lớp dưới (Bài 7, sách Ngữ văn 8, tập hai). Để tích hợp với nội dung đọc hiểu ở Bài 1, yêu cầu phân tích một tác phẩm thơ gắn với ngữ liệu các bài đọc hiểu về thơ và thơ song thất lục bát nên các em cũng cần ôn lại kiến thức, kĩ năng đã học ở các bài đọc hiểu.
1.2. Để viết bài văn phân tích một tác phẩm thơ, các em cần chú ý:
– Đọc kĩ bài thơ được phân tích, chú ý đặc điểm thể loại, tác giả và bối cảnh ra đời (nếu cần thiết) của tác phẩm.
– Phân tích nội dung và các yếu tố hình thức nghệ thuật nổi bật của bài thơ. Chỉ ra mối quan hệ giữa hình thức và nội dung; từ đó, làm rõ giá trị của các yếu tố hình thức trong việc thể hiện nội dung, chủ đề của tác phẩm.
– Thực hiện các bước viết bài nghị luận theo quy trình bốn bước: chuẩn bị, tìm ý và lập dàn ý, viết, kiểm tra và chỉnh sửa.
– Suy nghĩ, nhận xét về ý nghĩa, giá trị và sự tác động của tác phẩm đối với người đọc cũng như với cá nhân em.
2. Thực hành
Đề bài (trang 24 sgk Ngữ Văn lớp 9 Tập 1): Phân tích bài thơ “Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến.
a. Chuẩn bị
– Đọc kĩ đề bài, xác định các yêu cầu cần thực hiện.
– Xem lại kiến thức ngữ văn về thể loại thơ song thất lục bát đã học; đọc lại bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến; chú ý những bài thơ viết về tình bạn thắm thiết, thuỷ chung.
– Xác định nội dung và hình thức nghệ thuật nổi bật nhất của bài thơ (chú ý đặc điểm và tác dụng của thể thơ song thất lục bát trong việc biểu đạt nội dung).
b. Tìm ý và lập dàn ý
– Tìm ý cho bài viết bằng cách đặt và trả lời các câu hỏi sau:
+ Bối cảnh, đề tài và chủ đề của bài thơ Khóc Dương Khuê là gì?
+ Nghệ thuật của bài thơ Khóc Dương Khuê có gì đặc sắc?
+ Các yếu tố hình thức nghệ thuật ấy đã làm nổi bật chủ đề bài thơ như thế nào?
+ Qua bài thơ Khóc Dương Khuê, có thể thấy tinh thần, tình cảm và thái độ của người viết đối với người bạn của mình như thế nào?
+ Có thể học được gì về tình bạn từ bài thơ Khóc Dương Khuê
– Lập dàn ý bằng cách sắp xếp các ý đã tìm được theo bố cục ba phần:
Mở bài: Giới thiệu khái quát về đề tài và giá trị của bài thơ Khóc Dương Khuê.
Thân bài:
Lần lượt nêu các ý đã tìm được theo một trình tự hợp lí, chẳng hạn:
+ Nêu bối cảnh và sự kiện tạo ra nguồn cảm xúc cho tác giả viết bài thơ.
+ Chủ đề của bài thơ.
+ Phân tích các yếu tố hình thức và tác dụng của chúng trong việc biểu đạt nội dung bài thơ.
+ So sánh với một số bài thơ viết về cùng đề tài (nếu có) để làm rõ sự độc đáo của bài Khóc Dương Khuê.
Kết bài: Khái quát giá trị bài thơ và nêu tác động của bài thơ này đối với cá nhân em.
c. Viết
Dựa vào dàn ý đã làm để viết bài nghị luận phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê. Trong khi viết, chú ý vận dụng cách so sánh trong phân tích thơ.
d. Kiểm tra và chỉnh sửa
– Đọc lại bài văn đã viết
– Việc kiểm tra, chỉnh sửa cần chú ý những yêu cầu chung sau đây:
Phương diện kiểm tra |
Câu hỏi kiểm tra |
Nội dung |
Mở bài: Đã giới thiệu khái quát nội dung văn bản chưa? (Ở bài viết này là giới thiệu khái quát về bài thơ Khóc Dương Khuê) Thân bài: + Có nêu được các nội dung cụ thể làm rõ cho luận đề đã nêu ở mở bài không? (Ở bài viết này luận đề cần làm rõ là tình cảm sâu nặng của tác giả đối với người bạn của mình qua bài thơ Khóc Dương Khuê) + So với dàn ý, bài viết còn thiếu ý nào? Các ý có được sắp xếp phù hợp không? Ý nào trong bài trùng lặp nhau? + Có nêu được các lí lẽ và bằng chứng tiêu biểu, thuyết phục không? + Đã kết hợp được các phương thức biểu đạt và các thao tác khác trong khi viết hay chưa? (Ở bài viết này là kết hợp phân tích với giải thích, chứng minh, so sánh, biểu cảm… trong khi nghị luận.) + Có nêu được những suy nghĩ và cảm xúc riêng không? Kết bài: Đã khái quát, tổng hợp vấn đề được trình bày chưa? (Ở bài viết này là những suy nghĩ và cảm xúc của bản thân về nội dung và nghệ thuật của bài thơ Khóc Dương Khuê.) |
Hình thức |
+ Bài viết đã có đủ ba phần chưa? Độ dài của các phần có cân đối không? + Bài viết còn mắc những lỗi gì về trình bày, trích dẫn, dùng từ, đặt câu, chính tả…? |
Đánh giá chung |
+ Bài viết đáp ứng yêu cầu ở mức độ nào? + Em thấy thuận lợi hoặc khó khăn nhất khi thực hiện phần nào trong khi thực hành viết? Vì sao? + Thành công nhất của bài viết là gì? |
* Bài văn tham khảo:
Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) để lại khoảng 800 bài thơ chữ Nôm và chữ Hán trong đó có ngót một trăm bài thơ viết về tình bạn. Có bài như “Bạn đến chơi nhà” thì hầu như ai cũng biết. Viết về Dương Khuê (1839 — 1902) bạn chí thân của mình, Nguyễn Khuyến đã có bốn bài thơ chữ Hán. Riêng bài thơ thứ tư “Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương Thượng thư” (Viếng bạn đồng khoa là Vân Đình tiến sĩ Dương Thượng thư) được tác giả dịch ra chữ Nôm thành bài “Khóc Dương Khuê”.
Đây là bài thơ khóc bạn rất tha thiết cảm động của Nguyễn Khuyến cũng là bài thơ khóc bạn rất nổi tiếng trong nền thơ ca dân tộc. Dương Khuê là bạn đồng khoa với Nguyễn Khuyến tại khoa thi Hương năm 1864. Dương Khuê đỗ tiến sĩ, làm quan to, để lại nhiều bài thơ hát nói tuyệt bút. Từ bạn đồng khoa đã phát triển thành bạn tri âm tri kỉ nên Nguyễn Khuyến mới có thơ khóc bạn cảm động và tha thiêt như vậy. Có thể xem đây cũng là một bài văn tế được viết bằng thể thơ song thất lục bát, giọng thơ réo rắt thấm đầy lệ, gồm có 38 câu thơ.
Mở đầu bài thơ là một tiếng than, tiếng nấc đau đớn:
“Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta”.
Một sự thảng thốt xót thương cất lên, tưởng như bất ngờ bị đánh rơi mất một cái gì vô cùng quý báu. Nhóm từ “thôi đã thôi rồi” thay cho khái niệm “đã mất”, “đã chết”, “đã qua đời” V.V… một lối nói bình dị, làm giảm bớt đi nỗi đau đớn ghê gớm đối với tuổi già. Theo cách tính tuổi của các cụ ngày trước thì Dương Khuê mất lúc 63 tuổi, khi đó Nguyễn Khuyến đã 68 tuổi rồi. Đúng là tiếng khóc bạn của những bậc cao niên. Hai chữ “nước mây” chỉ hai sự vật cách xa. Nước chảy, mây trôi, xa nhau vời vợi, nghìn trùng cách trở, có mấy khi gặp nhau. Song, lòng nước chảy, dù đi đâu về đâu vẫn ôm ấp bóng mây trôi. Hình ảnh “nước mây” được liên kết với các từ láy “man mác”, “ngậm ngùi” diễn tả một trời thương xót, một không gian cách trở bao la, âm dương đôi đường, buồn đau, nặng trĩu.
Chữ “bác” trong thơ Nguyễn Khuyến mang tính biểu cảm sâu sắc. Nhà thơ luôn luôn gọi bạn bằng bác, thể hiện một tấm lòng kính trọng và thân mật. Chữ “kính” và chữ “lễ” in đậm trong phong cách ứng xử của Tam nguyên Yên Đổ: “Bác Dương thôi đã thôi rồi… Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác… Bác chẳng ở, dẫu van chẳng ở”…
Phần thứ hai gồm 24 câu thơ, tác giả nhắc lại, nhớ lại những kỉ niệm sâu sắc với người đã quá cố. Với nhà nho thì bạn đồng khoa là bạn đẹp nhất, tự hào nhất. Nguyễn Khuyến và Dương Khuê cùng đỗ đạt, cùng làm quan, tình bạn ấy là “duyên trời” tác hợp nên:
“Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau.
Kính yêu từ trước đến sau,
Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời”.
Các từ ngữ “sớm hôm”, “cùng nhau”, “từ trước đến sau” thể hiện một tình bạn vô cùng thân thiết, chung thuỷ. Mỗi một kỉ niệm là một mảnh tâm hồn của nhà thơ được nhắc lại với bao nhiêu giọt lệ. Nguyễn Khuyến như vẫn thấy Dương Khuê đang cùng mình hiển hiện. Phải là bạn tâm đầu ý hợp, phải là những tao nhân mặc khách mới có những kỉ niệm cầm ca, thi tửu đẹp và đáng nhớ như vậy.
Nhớ những cuộc du ngoạn, thăm thú nơi “dặm khách” chan hoà với thiên nhiên, thảnh thơi giữa chốn lâm tuyền: “Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo”. Nhớ những lần cùng nhau đi hát ả đào nơi lầu cao, thưởng thức cung đàn, giọng hát:
“Có khi từng gác cheo leo,
Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang”.
Cầm xoang nghĩa là cung đàn, giọng hát, “Từng gác cheo leo” như còn gợi lại cảm giác ngây ngất trên lầu cao của đôi bạn tri âm sành điệu. Nguyễn Khuyến và Dương Khuê rất sành nghệ thuật hát ả đào, đã sáng tác nhiều hài hát nói nổi tiếng.
Người xưa có nói: “Tửu phùng tri kỉ thiên bôi thiểu – Thi hội tri âm bán cú đa”. Bạn tri âm trong hội thơ (chỉ nghe qua) nửa câu thơ đã là nhiều không cần dài lời cũng đủ hiểu bạn. Nguyễn Khuyến nhớ lại những lần cùng bạn uống rượu làm thơ:
“Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,
Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.
Có khi hàn soạn câu văn,
Biết bao đông bích điển phần trước sau”.
Chén quỳnh tương là chén ngọc, một cách nói sang trọng. “Rượu ngon cùng nhắp” và hình ảnh “âm ắp bầu xuân” như còn giữ lại một tình bạn trong hương vị nồng nàn, hứng khởi. Nhắc tới chuyện bàn soạn văn chương thì đầy ắp những sách vở, điển cố.
Hai chữ “đông bích, điển phần” biểu lộ niểm tự hào kín đáo của những nhà nho học rộng tài cao.
Nguyễn Khuyến đã sử dụng cách diễn đạt trùng điệp hai nhóm từ ngữ: “Cũng có lúc” và “có khi” đan chéo vào nhau, bốn lần xuất hiện trên tám dòng thơ, vừa để liệt kê gợi nhớ, vừa tạo nên âm hưởng quấn quýt, thiết tha. Những kỉ niệm ấy vô cùng sâu sắc, đẹp đẽ vể tình bạn, không bao giờ có thể quên được.
Có kỉ niệm vui, có kỉ niệm buồn. Nguyễn Khuyến và Dương Khuê cùng làm quan to dưới thời nhà Nguyễn. Nhưng rồi đất nước ta bị xâm lăng, dân tộc ta bị giặc Pháp thống trị, là kẻ sĩ, là nhà nho “cùng nhau hoạn nạn”. Cách ứng xử của mỗi người đểu có chỗ khác nhau. Nguyễn Khuyến đã cáo bệnh, từ quan về sống cuộc đời bình dị giữa xóm làng quê hương. Không tham miếng “đẩu thăng”, lương bổng của triểu đình. Còn Dương Khuê vẫn làm quan. Trong bài thơ chữ Hán “Gửi thăm quan Thượng thư họ Dương”, Nguyễn Khuyến tỏ ra rất thông cảm với bạn: “Tôi biết bác vì cha mẹ phải làm quan để lấy tấm lụa -Bác biết tôi nghèo phải làm quan để kiếm đấu gạo lương”. Cảnh ngộ và cách ứng xử tuy có khác nhau, kẻ làm quan, người từ quan, nhưng Tam nguyên Yên Đổ vẫn tỏ ra bao dung bạn, vẫn “kính yêu từ trước đến sau”, không bao giờ thay lòng đổi dạ:
“Bác già tôi cũng già rồi,
Biết thôi, thôi thế, thì thôi, mới là”.
Chữ “rồi” vần với ba chữ “thôi” liên tiếp như một tiếng thở dài, tự an ủi mình, như muốn quên đi thật nhanh những điều bất đắc chí. Không nỡ, không muốn nhắc đến nữa mới là bạn bè tâm giao!
Bây giờ hai người đã đôi đường âm – dương vĩnh biệt. Khóc bạn, Nguyễn Khuyến nhớ lại lần gặp bạn cuối cùng. Ân hận vì đường xa, vì tuổi già sức yếu. Chữ “nhác” rất hay, nghĩa trong văn cảnh là ngại. Các chữ: “cầm tay” và “mừng rằng” thể hiện một tấm lòng quý mến, thương yêu. Đoạn thơ làm tái hiện một khung cảnh cảm động của đôi bạn già sau nhiều năm xa cách mới gặp lại nhau:
“Muốn đi lại, tuổi già thêm nhác,
Trước ba năm gặp bác một lần,
Cấm tay hỏi hết xa gần,
Mừng rằng bác vẩn tinh thần chưa can”.
“Tinh thần chưa can” ý nói sức khoẻ vẫn bình thường, tinh thần vẫn sáng suốt. Thế mà bạn đột ngột qua đời. Hình ảnh “chân tay rụng rời” cực tả nỗi đau đớn, bàng hoàng không kể xiết. Đoạn thơ sau đây thể hiện rất đúng, rất sâu sắc tâm lí và tình cảm người già khí được tin bạn mất:
“Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,
Tôi lại đau trước bác mấy ngày.
Làm sao bác vội về ngay?
Chợt nghe tôi bổng chân tay rụng rời!”.
Giọng thơ kể lể, tự tình. Trong lời than thấm đầy lệ. Các tiếng “tôi” và “bác” xuất hiện nhiều lần trong đoạn thơ như hai linh hồn đang nương tựa vào nhau; nỗi đau buồn như được nhân lên gấp bội.
Đoạn thơ hồi tưởng này, những kỉ niệm được trình bày theo trình tự thời gian, từ “thuở đăng khoa” đến ngày bạn qua đời. Phép liệt kê, trùng điệp được vận dụng để gây ấn tượng vể một tình bạn lâu bền, sâu sắc, thuỷ chung và vô cùng thắm thiết. Người Việt chúng ta, nhất là các cụ già lúc khóc người thân quá cố thường kể lể gợi nhắc mọi kỉ niệm ngụ ý thương tiếc. Có lúc ta cảm thấy người sống đang đối thoại và tâm sự với người đã khuất. Sáu đoạn thơ đã kể lại đủ hết các giai đoạn của tình bạn, lời kể nào cũng chân thành, đằm thắm. Nguyễn Khuyến vừa kể lể, vừa nức nở.
Tám câu thơ tiếp theo, Nguyễn Khuyến khóc bạn cũng là tự khóc mình, giọng thơ ngày một thêm não nùng, thê thiết. Ông trách bạn “vội đi xa” để mình lẻ loi, cô đơn. Cuộc sống trở nên chán chường, vô nghĩa:
“Ai chẳng biết chán đời là phải,
Sao vội vàng đã mải lên tiên;
Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua không phải không tiền không mua”.
Sau chữ “chẳng” xuất hiện liên tiếp 5 chữ “không” gợi tả cái trống vắng, cái cô đơn của nhà thơ, của cảnh già. Kẻ đi xa và người ở lại cùng chung nỗi niềm tâm sự “chán đời là phải”. Nhà thơ kín đáo bộc lộ thái độ đối với thời cuộc trước sau không thay đổi. Như đã từng thổ lộ:
“Sách vở ích gì cho buổi ấy
Áo xiêm nghĩ tại: thẹn thân già”.
(Ngày xuân dặn các con)
Cho đến trước lúc qua đời, ông vẫn không quên trăng trối con cháu:
“Đề vào mấy chữ trong bia,
Rằng: Quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu”.
(Di chúc)
Bạn mất đột ngột, nỗi thương tiếc, đau xót làm tê tái cả lòng. Sống trong cô đơn ngày thêm bơ vơ sầu tủi. Cuộc đời mất hết ý nghĩa: không muốn uống rượu, không thiết ngâm thơ, gian nhà và tâm hồn trở nên trống vắng, trơ trọi. Còn đâu nữa bạn tri âm tri kỉ?
“Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa
Giường kia treo cũng hững hờ,
Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn”.
Lời than khóc trở nên xót xa khi nhà thơ nhắc lại điển tích Tử Kỳ – Bá Nha và Trần Phổn – Từ Trĩ. Chiếc giường dành riêng tiếp bạn nay đã trở nên “hững hờ”. Tiếng đàn cũng “ngẩn ngơ” mất hồn vì lẻ bạn. Một cách nói thậm xưng để cực tả nỗi đau tê tái khi bạn thân qua đời. Khi còn sống thì đôi bạn cùng đi chơi “dặm khách”, cùng “lựa chiều cầm xoang”, “rượu ngon cùng nhắp”, cùng “bàn soạn câu văn” … Lúc bạn qua đời chẳng còn người tri âm tri kỉ để cùng nhau uống rượu, làm thơ, nghe đàn, năng lui tới thăm nom, chia ngọt sẻ bùi cùng nhau. Nguyễn Khuyến đã có nhiều cách nói rất sâu sắc, cảm động diễn tả sự thương xót bạn và nỗi buồn cô đơn của mình.
Bốn câu cuối bài thơ như một tiếng nấc đau đớn. Tuổi già vốn ít lệ (hạt lệ như sương), nên chỉ biết khóc ở trong lòng. Thương bạn gắn liền với bao nỗi nhớ. Khóc bạn chuyển thành nỗi niềm như cam chịu số phận bi thương. Chỉ cầu mong cho linh hồn bạn thanh thản “lên tiên”:
“Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,
Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương,
Tuổi già hạt lệ như sương,
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan”.
Trải qua bao mưa nắng, bao thăng trầm hoạn nạn, Tam nguyên Yên Đổ còn đâu nhiêu nước mắt để khóc bạn, chí còn biết “lấy nhớ làm thương”. Tuy nhiên cả bài thơ, nhất là bốn câu kết đã “chứa chan” nước mắt đau xót. Hai câu thơ: “Bác chẳng ở dẫu vẫn chẳng ở – Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương” với cách diễn đạt trùng điệp và tăng cấp đã tạo nên giọng thơ buồn thê thiết, Nguyễn Khuyến để lại nhiều tiếng khóc: khóc cho đất nước và dân tộc, khóc vợ, khóc con, khóc bạn,… Tiếng khóc nào cũng xúc động, tê tái, nặng tình, nặng nghĩa. Riêng bài “Khó Dương Khuê” lại được viết bằng thể thơ song thất lục bát, lời khóc bạn càng trở nên thiết tha, não nùng, lúc thì nức nở, thảng thốt, lúc thì kể lể thở than, lúc thì phân trần, lúc thì trách móc, lời thơ thủ thỉ như nói với người còn sống, rất cảm động Giọng thơ liền mạch, lời thơ tinh tế, biểu cảm đã thể hiện nghệ thuật vừa bình di, vừa điêu luyện.
“Khóc Dương Khuê” thể hiện một tình bạn đẹp và cảm dộng của nhà nho thuở trước. Sau một thế kỉ, chúng ta vẫn thấy bùi ngùi xúc động khi đọc bài thơ này. Nguyễn Khuyến khóc bạn cũng là khóc cho một thế hệ nhà nho và cũng là tự khóc cho minh: “Ai chẳng biết chán đời là phải”…
2.2. Rèn luyện kĩ năng viết: So sánh trong phân tích thơ
a) Cách thức
So sánh là chỉ ra sự giống nhau, khác nhau của hai hay nhiều tác phẩm, làm nổi bật sự độc đáo, sáng tạo của nhà thơ. Về nguyên tắc, có thể so sánh điểm giống và khác nhau ở tất cả các cấp độ, từ nội dung (đề tài, chủ đề, cảm hứng, tư tưởng…) đến hình thức tác phẩm (nhan đề, bố cục, chi tiết, vần, nhịp, hình ảnh, các thủ pháp nghệ thuật ngôn ngữ…); có thể so sánh tác phẩm của hai tác giả nhưng cũng có thể so sánh hai tác phẩm của cùng một tác giả.
Trong phân tích thơ, để làm nổi bật cái hay, cái đẹp của tác phẩm được phân tích, người viết thường so sánh với các tác phẩm cùng đề tài, chủ đề… Ví dụ, khi phân tích bài Sông núi nước Nam, có thể dẫn ra các tác phẩm cùng viết về tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc như Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn), Phò giá về kinh (Trần Quang Khải), Tỏ lòng (Phạm Ngũ Lão), Đại cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi) … cũng như nhiều bài thơ hiện đại sau này. Hoặc phân tích những bài thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh, nhiều người đã liên hệ với thơ Đường, thơ Tổng, so sánh để thấy rõ: Thơ của Người “rất Đường mà lại không Đường một tí nào” (Hoàng Trung Thông).
b. Bài tập
Đề bài (trang 26 sgk Ngữ Văn lớp 9 Tập 1): Hãy viết đoạn văn so sánh, nêu lên một điểm giống nhau và một điểm khác nhau giữa văn bản Sông núi nước Nam với văn bản Nước Đại Việt ta (trích Đại cáo bình Ngô – Nguyễn Trãi).
* Bài thơ tham khảo:
Nếu “Sông núi nước Nam” chỉ khẳng định nước có chủ nghĩa thì có vua Nam ở thì ở bài “Nước Đại Việt ta” , Nguyễn Trãi lại chứng minh nước nhà có độc lập dân tộc bằng việc khẳng định rõ nước ta có quốc hiệu , có nền văn hiến lâu đời, có bề dạy lịch sử riêng của dân tộc, lãnh thổ riêng, có chủ quyền, chế độ và phong tục riêng. Qua đây, ta cũng đã thấy được văn bản “Nước Đại Việt ta” có học thuyết về quốc gia hơn “Sông núi nước Nam”. Đồng thời, người đọc cũng thấy được giọng nói hào hùng, lời văn nhịp nhàng, ngân vang của tác giả. Văn bản có đoạn đầu bài là một sự đối lập từ khái quát cho đến cụ thể, lại còn giàu chứng cớ lịch sử khiến cho ai ai là con dân đất Việt cũng có cảm xúc tự hào. Có lẽ, cả 2 văn bản đều rất hay và thể hiện chủ quyền nước ta, cũng đều được coi là bản tuyên ngôn độc lập của nước ta nhưng “Nước Đại Việt ta” lại có những điều tiến bộ, phát triển hơn với tính toàn diện, sâu sắc của từng lời thơ trong nó. Phải chăng, càng ngày càng về sau thì con người ta lại càng phát triển, thông minh và tốt đẹp hơn, điều đó đã được chứng minh qua việc ta so sánh “Sông núi nước Nam” và “Nước Đại Việt ta”.
Xem thêm các bài soạn văn lớp 9 Cánh diều hay, chi tiết khác:
Thực hành đọc hiểu: Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Phân tích một tác phẩm thơ
Nghe và nhận biết tính thuyết phục của một ý kiến
Tự đánh giá: Cảnh vui của nhà nghèo
Hướng dẫn tự học trang 32
Tri thức Ngữ văn trang 33