Chỉ từ 150k mua trọn bộ Đề thi giữa học kì 2 Ngữ văn 10 Cánh diều bản word có lời giải chi tiết (chỉ 20k cho 1 đề thi bất kì):
B1: –
B2: – nhấn vào đây để thông báo và nhận giáo án.
Xem thử tài liệu tại đây: Link tài liệu
Đề thi giữa kì 2 Ngữ văn lớp 10 Cánh diều có đáp án năm 2024 – Đề 1
Phòng Giáo dục và Đào tạo …
Đề thi Giữa kì 2 – Cánh diều
Năm học 2023 – 2024
Môn: Ngữ Văn lớp 10
Thời gian làm bài: phút
(Không kể thời gian phát đề)
(Đề số 1)
I. ĐỌC HIỂU (6đ)
Học sinh đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi phía dưới
BÀ LÃO LÒA
(Vũ Trọng Phụng)
76 tuổi đầu, mỗi bữa thất thểu ăn một lưng cơm, bà lão lòa ở nhờ một đứa cháu họ, thật đã lắm phen cực nhục. Cháu bà, bác đánh giậm, với vợ, một chị mò cua bắt ốc, khốn thay, dưới nách hai đứa con mọn, cũng lắm phen nhăn nhó vì chẳng đủ ăn. Hai mươi năm về trước, bà lão lòa này còn là người có của trong làng. Con trai bà nó chơi, nó phá, nó bán ruộng, cầm nhà rồi nó bỏ bà nó đi, chẳng biết đi đâu, lòng mẹ đối với con tuy có giận mà vẫn có thương, bà khóc lóc một mình đến nỗi lòa cả mắt. Trong thời bà còn giàu có, ngoài những việc cúng tiền tô tượng đúc chuông, bà còn năng giúp đỡ kẻ nghèo khó; trong họ ngoài làng, nhiều người đã được nhờ bà mà đến khi bà gặp bước khốn cùng thì chẳng ai thương cả. Cũng vì xưa kia đã nhiều phen ngửa tay nhận lấy đồng tiền cứu giúp của bà, bác đánh giậm đành cắn răng, vuốt bụng, nhắm mắt nuôi cô trong lúc hoạn nạn. Nhưng vốn bị ma nghèo ám ảnh, mới nuôi cô được độ ba năm, bác đánh giậm đã thấy nản lòng. Cái cảnh túng bấn nó thường đẩy người ta vào chốn bùn nhơ, nó thường buộc người vào vòng tội lỗi, đối với bác đánh giậm, ác hơn, nó làm bác quên bỏ cả lương tâm. Quên hẳn cái ơn ngày trước, bác ta chỉ còn biết xót ruột khi bà lão lòa lò rò ngồi vào mâm, cướp cơm của vợ, của con nhà bác.
Buổi chiều hôm ấy… Trước túp lều tranh xiêu vẹo như chỉ còn chờ một trận gió to là đổ ụp xuống, cái sân đầy những bã mía, lá khô, một mâm cơm bát đàn đũa mộc trong để đĩa cá rô kho chuối với đĩa cá đen sịt đen sì, cầm trên tay mấy bát cơm ngô vàng ói, bà lão lòa, bác gái và hai đứa bé chỉ còn chờ bác trai rửa mặt rửa chân tay, ngồi vào là cùng cầm đũa. Đàn ruồi vù vù bay lung tung như đánh trận, hết bâu đầy vào mấy nốt mụn chốc trên đầu thắng cụ còn lại bay xuống đặt mình vào đĩa cá.
Bác trai, người mảnh khảnh, đen như củ súng, trấn răn, má hợp, mặt kèm nhèm, mặc cái áo vải và đã đến năm mười miếng mụn, đóng khổ, vừa ngồi xổm xuống đất cầm lấy bát cơm, vợ đã vội hỏi:
– Bố nó hôm nay kiếm được bao nhiêu tất cả…? Ấy tôi chỉ được có bốn sóc cua hai xu với một mẹt tôm riu năm xu là bảy dãy thôi. Gạo ăn bữa mại hết rồi […]
Bà lão lòa, ăn hết một lưng, tay lấy bẩy chìa bát ra toàn xin ít nữa, chưa kịp nói, bác gái đã quát:
– Hết rồi… Còn đâu nữa mà chìa mãi bát ra… Đến tôi đây quần quật suốt ngày, đã ốm cả xác mà cũng chỉ được có ba lưng thôi đấy… Bà không phải làm gì, ngồi nhà ăn ít cũng được.
Bà lão giật mình, đó người ra một lúc rồi đứng lên đi vào trong nhà, ngồi xuống bậu cửa, lấy cái tăm gài trên mái tóc xuống xỉa răng. trong trí nhớ của bà lại thấy hiện ra:
[….] Giữa chợ gần chỗ hàng gà, hàng cá, mùi hôi tanh xông lên nhức đầu, một đám đông xúm quanh một người đàn bà ăn mặc rách rưới, tay ôm đứa bé chừng bốn năm tháng.
– Thưa bà, cháu chỉ lấy có năm đồng thôi đấy ạ.
– Thôi, chả của đâu mà trả đến năm đồng. Trông gầy thế kia, biết rồi có sống được không? Ba đồng đấy, bằng lòng đi!…
– Rõ tội nghiệp chưa! Tôi mà có năm đồng thì tôi trả ngay..!
Bỗng có một bà ăn mặc lụa là, phúc hậu, len lỏi vào cất tiếng dõng dạc hỏi:
– Này nhà bác kia! Làm gì mà đến nỗi phải bán con đi thế?
– Thưa bà, nhà con phải bệnh, liệt giường liệt chiếu đã hơn nửa tháng nay, không có tiền thuốc thang gì thì chết mất. Con phải bán cháu đi để cứu lấy nhà con…
– Này..! Cứ ẵm cháu về, đừng có bán nó đi mà phải tội đấy! Năm đồng đây tôi xin giúp. Hãy cầm về mà liệu thuốc men cho bác trai. Người kia ngạc nhiên ngơ ngác nhìn lên, mãi chưa dám tin là thật, bàng hoàng như đang lúc chiêm bao… phục ngay xuống đất mà rưng rức khóc. Đám người tản mát, có kẻ thì thào: người đâu mà phúc đức tệ.
Ấy đó, đổi lại bao nhiêu điều thiện xưa kia ông trời cay nghiệt nay đều trả bà bằng hai con mắt lòa với một cảnh ăn gửi nằm nhở cực kỳ khổ sở. Cho rằng kiếp xưa tiền oan nghiệp chướng chỉ đây, nghĩ thương mình, thương đứa con bất hiếu, thương vợ chồng con cái bác đánh giậm, bà lão lòa thổn thức, trên hai gò má răn reo lại thấy mấy giọt nước mắt chảy ròng ròng. Bà lão gục đầu xuống gối tỉ tê khóc không ra tiếng, chỉ thấy sụt sùi hậm hực, khiến thằng cu con lò rò bò đến với bà, không hiểu ra sao bỗng cũng khóc thét lên. Bác gái chạy vào bực mình xỉa xói […]
– Trời làm đói kém thế này, vợ chồng chúng tôi không thể nuôi bà được nữa
đâu, bà phải liệu mà giúp đỡ chúng tôi mới được. Rồi từ mai trở đi, để thằng cháu nó giắt bà ra đầu đê, bà ngả nón dưới bóng cây gạo mà ngồi, thấy tiếng người chợ búa qua lại thì bà chìa rá ra xin, nếu có được mỗi ngày một vài xu cũng là đỡ được cái mồm bà rồi đấy…
Đã được nửa tháng nay, sáng nào cũng thấy thắng cu lớn dắt bà ra ngồi đầu đê rồi chiều đến lại dắt về… Chẳng may, nếu hôm nào về tay không thì vợ bác đánh giậm – cháu bà – lại nghiến răng xỉa xói thậm tệ:
– Hôm nay chẳng ai thí cho bà đồng nào..! Bà có biết thế là bà lại ăn phần cơm của thăng cu lớn đấy không? Từ mai, bà liệu mà kêu to lên mới được… Hay tại bà ngồi dưới bóng cây mát mà ngủ thiếp đi…? Bà liệu đấy…!
Bát cơm ngô điểm quả cà thiu, bà lão lòa trước khi và vào mồm đã chan đầy như canh bằng nước mắt.
Một ngày kia, trời tháng ba nắng gay gắt, bà lão lòa dưới gốc cây gạo, ngồi từ sáng đến quá trưa, bụng đã đói mềm mà chẳng thấy người khách đi đường nào vứt cho lấy một đồng trinh…bốn bề im lặng như tờ. Hai cánh tay khẳng khiu ôm lấy bụng mà nhăn nhó, cố quật lại với cái đói nó cào xé ruột gan, bà lão lòa thở hổn ha hổn hển.
Chợt có tiếng người giẫm lạo xạo trên đống lá khô, đi về phía mình bà lão vội chìa ngay nón:
– Lạy ông đi qua, lạy bà đi lại…! Cứu cho thân tôi lấy một miếng cơm…
– Tôi đây…! Phải ai đâu mà lạy với lục…? Bà được đồng nào chưa thì đưa đây cho tôi…
– Đã được đồng nào đâu…? Chẳng thấy ai đi qua đây cả… Mẹ nó có dắt tôi về thì dắt, tôi đói lắm rồi…!
– Bà đói à? Bà đói thì dễ tôi no à? Bà hãy ngồi đấy xem sao, buổi chợ chiều nay, rồi họ về qua đây nhiều… chốc nữa, tôi sẽ bảo thằng cu nó ra nó dắt….
Rồi bác ta thoăn thoắt bước đi…Bỗng trên trời mây kéo đen nghịt tối sầm hẳn lại, rồi nổi một cơn giông. Bác đánh giậm chạy vội ra sân vơ quần áo đem vào nhà, giục thằng cu lớn mau mau chạy ra để dắt bà về kẻo mưa to gió lớn. Nghe câu ấy, bác gái ngồi ôm con một góc giường cau mày ngẫm nghĩ: Thật vậy! Ba bốn năm nay, bác ta đã nhịn như nhịn cơm sống ấy rồi, quá lắm thì không chịu được. Mặc kệ bà ấy! Để bà ấy chết quách đi cho rãnh mắt.
[….] Không, không! Không thể thế được… Bà lão ấy chỉ là một bà cô… mà lạ là cô họ chồng, có lẽ nào báo hại mãi nhau.
Kìa! Thằng cu! Tao bảo thế nào…? Không bỏ bếp đấy mà ra dắt bà về à?
Bỗng bác gái đặt phịch con xuống giường, quặn mình nhăn nhó:
– Ôi trời đất ôi…! Ôi trời đất ôi…!
– Chết chửa… làm sao thế? Sao thế hở mẹ nó?
– Sao mà bụng tôi cứ thấy đau xoắn lại thế này! Ối trời đất ôi, đau thế này thì đến chết mất thôi
– Chết chửa! Kìa thằng cu.. ẵm em dỗ đi.. dỗ đi cho nó nín rồi dậy đấm cho u mày một chốc… để tao đi nướng hòn gạch mà chườm bụng vậy… Rõ khổ chửa?
[…]Tiếng sấm động ù ù, mỗi khi chớp nhoảng chớp nhoáng nó lại nom rõ thấy giữa những vũng bong bóng phập phồng, những dây nước ròng ròng từ mái tranh rỏ xuống. Chợt nghĩ đến bà nó ở ngoài đầu đê không biết ra sao, quay lại nhìn thì bố nó vẫn lúi húi dọn cơm, nét mặt thản nhiên như không, thằng cu phụng phịu nét mặt, hỏi gắt:
– Kìa thày! Thế bà ở ngoài đầu đê,
Nó chưa nói hết cầu, bố nó đã như bị một luồng điện giật nảy người ra, mắt tròn xoe, mãi mới nói được.
– Chết chửa! Biết làm thế nào bây giờ. U mày đau bụng, kêu rồi rít lên, làm tao cũng quên bẵng đi mất…
– Thế thì chắc bà chết rét mất rồi… Còn gì nữa…
Nghĩ đến cái chết của bà lão lòa ở ngoài đầu đề – tình cháu đối với cô – bác đánh giậm rùng mình, rợn tóc gáy nhưng bác tự dối lương tâm, bác đáp lại con:
– Ôi già… chả việc gì phải sợ.. dễ bà lại không biết lần mò đến một cải quán nào đẩy mà ẩn hay sao…?
Rồi bác gọi vợ con dậy ăn cơm. Bữa ấy bác gái tuy kêu đau bụng mà cũng cố ăn được đến bốn năm lưng, mặc dầu hai đứa bé không thấy bà nó đâu, thường nhắc đi nhắc lại. Trời vẫn mưa, lúc to lúc nhỏ, rả rích suốt đêm.
Sáng hôm sau, ánh sáng mặt trời xé những đám mây bay tan tác, chiều xuống trông lại càng tươi càng đẹp. […]
Bác đánh giậm hôm ấy dậy rất sớm, đóng khổ, cài rổ, vác vợt ra đi… Mon men ở dưới chân để, lội lõm bom qua mấy vũng bùn lầy xa xa, phía dưới cây gạo – chỗ bà lão lòa vẫn ngồi, bác thấy giữa ruộng, trong một đám mạ xanh tươi tốt, một đàn quạ, con bay con liệng, kêu sào sạc rồi đậu xúm xít vào một chỗ. Bụng tưởng hẳn là một tổ rắn chi đây, bác ta vác ngay một vợt tre lên mặt rồi phăm phăm chạy lại. Đàn quạ vùng bay lên rồi tản mác đi… Chao ôi! Bước vừa đến nơi thì bỗng bác ta rú lên một tiếng, trợn mắt rít răng mà ngã phục xuống.[…]
(https://by.com.vn/YYE12)
Câu 1: Những dấu hiệu KHÔNG cho biết văn bản trên là truyện ngắn?
A. Nhân vật ít
B. Dung lượng ngắn (gần 4 trang)
C. Sự việc diễn ra chủ yếu ở một gia đình
D. Phản ánh xã hội rộng lớn
Câu 2: Dòng nào nói lên thông tin từ nhan đề của tác phẩm?
A. Đề tài
B. Nhân vật chính
C. Chủ đề
D. Bức thông điệp
Câu 3: Nhân vật chính của truyện ngắn trên là?
A. Bà lão lòa
B. Hai mẹ con bà lão lòa
C. Bà lão lòa, hai vợ chồng người cháu họ
D. Hai bố con người cháu họ
Câu 4: Nội dung của đoạn mở đầu văn bản là?
A. Cực nhục và kí ức
B. Bà lão chết trong mưa gió
C. Gia cảnh bà lão lòa
D. Bà lão lòa phải đi ăn xin
Câu 5: Nội dung nào sau đây nén nhiều sự việc (hàm súc) có khả năng phản ánh số phận của nhân vật như tiểu thuyết?
A. Bà lão lòa phải đi ăn xin
B. Gia cảnh bà lão lòa
C. Bà lão chết trong mưa gió
D. Cực nhục và kí ức
Câu 6: Đoạn có chứa nội dung Cực nhục và kí ức sử dụng thủ pháp nghệ thuật chính nào? Để làm gì?
A. Đối thoại để làm nổi bật bản chất của người cháu dâu
B. Tái hiện hồi ức để làm nổi bật tấm lòng nhân hậu của bà lão
C. Đối lập tương phản để khắc họa nỗi cực nhục hiện tại của bà lão
D. Đối thoại để làm nổi bật tình cảnh cơ cực của vợ chồng người cháu họ
Câu 7: Các sự việc trong tác phẩm được sắp xếp theo trình tự nào?
A. Thời gian
B. Không gian
C. Hiện thực, hồi ức đan xen
D. Tất cả các ý trên
Câu 8: Dòng nào nói lên cảm hứng bao trùm toàn tác phẩm?
A. Phê phán người cháu dâu tệ bạc
B. Xót thương cho bao kiếp người cơ cực
C. Ngợi ca tấm lòng cậu bé (con trai người cháu)
D. Lên án người con trai của bà lão lòa
Câu 9: Phân tích lời nói, hành động người cháu họ của bà lão lòa khi vợ kêu đau bụng, khi bà lão lòa ở ngoài đê trong mưa cho đến sáng hôm sau để thấy được bản chất con người này (1đ)
Câu 10: Em hãy viết tiếp câu chuyện về 3 nhân vật trong gia đình người cháu họ sau khi người chồng rú lên một tiếng, trợn mắt rít răng mà ngã phục xuống ngoài cánh đồng (khoảng 5-10 câu)(1đ)
II. VIẾT (4đ)
Câu 1: Quan sát 2 bức ảnh sau và trả lời câu hỏi a,b (1đ)
a. Chỉ ra nét tương đồng và khác biệt ở 2 bức ảnh trên và đề xuất một chủ đề liên quan tới hai bức ảnh
b. Bức ảnh nào gây nên cảm xúc mãnh liệt ở em? Yếu tố nào gợi lên cảm xúc đó?
Câu 2: Chọn 1 trong 2 đề sau:
Đề 1: Viết bài luận thể hiện suy nghĩ, thái độ và quan điểm của cá nhân về vấn đề được phản ánh trong bức ảnh số 2
Đề 2: Viết bài luận phân tích truyện ngắn Bà lão lòa
—–Hết—–
– Học sinh không được sử dụng tài liệu.
– Giám thị không giải thích gì thêm.
Hướng dẫn giải:
Phần I. ĐỌC HIỂU
Câu 1 (0.5đ) |
Câu 2 (0.5đ) |
Câu 3 (0.5đ) |
Câu 4 (0.5đ) |
Câu 5 (0.5đ) |
Câu 6 (0.5đ) |
Câu 7 (0.5đ) |
Câu 8 (0.5đ) |
D | B | A | C | B | C | C | B |
Câu 1:
Dấu hiệu nhận biết thể loại truyện ngắn:
– Truyện ngắn chỉ chứa một biến cố cơ bản. Sự kiện ít, xung đột ít, cốt truyện thì đơn giản.
– Truyện ngắn có thời gian và không gian của câu chuyện phụ thuộc vào người kể, môi trường, hoàn cảnh câu chuyện.
– Truyện ngắn miêu tả nhân vật ở những khía cạnh nổi bật nhất.
– Truyện ngắn thường ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp.
– Truyện ngắn được tạo dựng từ những chi tiết hết sức hấp dẫn, sinh động.
– Truyện ngắn thường có kết cấu bất ngờ đột biến, hoặc tương phản, hoặc liên tưởng.
→ Đáp án D (phản ánh xã hội rộng lớn là đặc điểm của thể loại tiểu thuyết)
Câu 2:
Nhan đề: Bà lão lòa cho người đọc biết nhân vật chính của tác phẩm
→ Đáp án B
Câu 3:
Câu chuyện xoay quanh nhân vật chính là Bà lão lòa (cũng chính là nhan đề tác phẩm)
→ Đáp án A
Câu 4:
Nội dung chính của đoạn mở đầu tác phẩm: Gia cảnh bà lão lòa thông qua những chi tiết:
– Ở nhờ một đứa cháu họ, lắm phen cực nhục
– Hai mươi năm về trước, bà lão lòa này còn là người có của trong làng. Con trai bà bó chơi, nó phá, nó bán ruộng,…
….
→ Đáp án C
Câu 5:
Nội dung nén nhiều sự việc (hàm súc) có khả năng phản ánh số phận của nhân vật như tiểu thuyết là Gia cảnh bà lão lòa
– Trước đây, gia cảnh bà lão thuộc dạng khá nhưng vì người con ăn chơi nên bà mới ra cơ sự như vậy
– Trong thời gian còn giàu có, bà năng làm việc thiện, giúp đỡ những kẻ nghèo khó
– Sau này, khi túng quẫn phải ở cùng gia đình người cháu, tất cả sự đau khổ của bà lão mới thực sự bắt đầu
→ Đáp án B
Câu 6:
Đoạn có chứa nội dung Cực nhục và kí ức sử dụng thủ pháp nghệ thuật chính: Đối lập tương phản
Tác dụng: để khắc họa nỗi cực nhục hiện tại của bà lão
→ Đáp án C
Câu 7:
Trình tự sắp xếp các sự việc trong tác phẩm: Hiện thực, hồi ức đan xen
→ Đáp án C
Câu 8:
Cảm hứng bao trùm toàn tác phẩm: Xót thương cho bao kiếp người cơ cực mà cụ thể ở đây là số phận của bà lão lòa
→ Đáp án B
Câu 9:
– Lời nói, hành động của người cháu:
+Kìa! Thằng cu! Tao bảo thế nào…? Không bỏ bếp đấy mà ra dắt bà về à? Ông lại đét cho bây giờ.
+ Để tao đi nướng hòn gạch mà chườm bụng vậy. Rõ khổ chửa?
+ Chết chửa! Biết làm thế nào bây giờ? U mày đau bụng, kêu rối rít lên, làm tao cũng quên bẵng đi mất…
+Nghĩ đến cái chết của bà lão lòa ở ngoài đầu đê- tình cháu đối với cô- bác đánh giậm rùng mình, rợn tóc gáy.
+ Dễ bà lại không biết lần mò đến một cái quán nào đấy mà ẩn hay sao…?
+ Chao ôi! Bước vừa đến nơi thì bỗng bác ta rú lên một tiếng, trợn mắt rít răng mà ngã phục xuống…
– Phân tích: Tác giả khắc họa nhân vật qua lời thoại, hành động, suy nghĩ…
→ Làm rõ con người chân thật, mộc mạc, thương người: lo lắng cho vợ, cho bà cô họ; nhiều lần nhân vật này phải tự trấn an mình, tự lảng đi… rất lo lắng cho bà cô già mù lòa đang ở ngoài đê, dưới mưa
→ Tình thương bị nghèo đói che khuất… cái đói, nghèo chưa thể bào mòn nhân tâm của người nông dân
Câu 10:
Học sinh tự làm (gợi ý: phát triển sự việc phù hợp với tính cách nhân vật hoặc có sự chuyển biến tính cách… Cần hướng về tính nhân văn)
PHẦN II. VIẾT
Câu 1:
a. Chỉ ra nét tương đồng và khác biệt ở 2 bức ảnh trên và đề xuất một chủ đề liên quan tới hai bức ảnh
Phương pháp giải:
Quan sát kĩ 2 bức ảnh
Rút ra nét tương đồng và khác biệt ở 2 bức ảnh
Đề xuất một chủ đề liên quan tới hai bức ảnh
Lời giải chi tiết:
– Nét tương đồng và khác biệt
+Ảnh 1: Cảnh đối lập giữa 2 đứa trẻ: giàu và đói nghèo
+ Ảnh 2: Bé trai chết bên bờ biển
+Tương đồng: cùng đề cập đến nỗi khốn khổ bất hạnh của những đứa trẻ
– Đề xuất chủ đề: Học sinh tự làm ( ngôn từ ngắn gọn, hướng vào bản chất của vấn đề)
b. Bức ảnh nào gây nên cảm xúc mãnh liệt ở em? Yếu tố nào gợi lên cảm xúc đó?
Phương pháp giải:
– Chọn một bức ảnh mà bản thân cảm thấy có cảm xúc mãnh liệt
– Đưa ra yếu tố gợi lên cảm xúc đó
Lời giải chi tiết:
– Học sinh tự lựa chọn
– Nêu yếu tố gợi cảm xúc cần logic với bức ảnh đã lựa chọn và phù hợp với văn hóa dân tộc, tính nhân, nhân loại.
Câu 2: Viết bài văn
Phương pháp giải:
Sử dụng những kiến thức đã học và kinh nghiệm của bản thân để hoàn thành yêu cầu
Lời giải chi tiết:
Đề 1:
– Về nguồn gốc bức ảnh số 2: Cậu bé 3 tuổi người Syria bị chết đuối vào ngày 2/9/2015 ở Địa Trung Hải. Hình ảnh em nằm chết đã lên trang đầu của báo chí toàn cầu. Em cùng gia đình là những người tị nạn Syria đã vượt biên đến Châu Âu giữa cuộc khủng hoảng tị nạn Châu Âu.
– Xác định luận đề: Di dân đến Châu Âu |
||
Phần chính |
Điểm |
Nội dung cụ thể |
Mở bài |
0.25 |
– Giới thiệu nguồn gốc bức ảnh – Đánh giá khái quát của người viết |
Thân bài |
2.00 |
Gồm các ý chính (từ 2 luận điểm trở lên) – Làm rõ cách hiểu, hiện trạng của di dân (có dẫn chứng) – Phân tích nguyên nhân, tác hại, hệ lụy của việc di dân +Vì sao người dân lại chọn cách nhập cư trái phép/di dân? +Gây ra những cái chết trên hành trình di dân +Giải quyết vấn đề về người tị nạn + Gây ra các vấn đề về an ninh cho nước sở tại – Quan điểm người viết trong đề xuất giải pháp nhân đạo +Về phía những người di dân +Hành động nhân đạo của nước sở tại có người di dân tới (lập luận + dẫn chứng xác thực; dùng yếu tố biểu cảm) |
Kết bài |
0.25 |
– Vai trò của tổ chức, hành động nhân đạo với người di dân – Nhận thức, hành động của bản thân |
Yêu cầu khác |
0.25 |
– Bài viết thể hiện rõ đặc trưng thể loại (nghị luận) – Diễn đạt rõ ý; lập luận logic; suy luận, bình luận phù hợp với văn hóa dân tộc… |
Đề 2:
Truyện ngắn Bà lão lòa tái hiện cho ta ngay từ đầu thời khắc tăm tối, ê chề trong phận sống nhờ của nhân vật cùng tên – là người cô họ của bác đánh giậm. Lần hồi sau đó, tác giả đưa ta trở về với quá khứ khi bà lão còn giàu có, bà đã “giúp đỡ kẻ nghèo khó; trong họ ngoài làng, nhiều người đã được nhờ bà” thế nhưng “đến khi gặp bà bước khốn cùng thì chẳng ai thương cả”. Tác giả cũng cho ta biết rằng ngày trước bác đánh giậm “đã nhiều phen ngửa tay nhận lấy đồng tiền cứu giúp của bà” nên bây giờ “đành cắn răng, vuốt bụng, nhắm mắt” nuôi bà trong lúc hoạn nạn với nỗi niềm biết bao “xót ruột khi bà lão lòa lò rò ngồi vào mâm, cướp cơm của vợ, của con nhà bác”. Quay ngược thời gian như vậy, nhà văn đã cho ta một cái nhìn toàn diện hơn về cuộc đời bà lão lòa; đồng thời ông cũng nhấn mạnh thái độ lên án, phê phán đối với cuộc đời này. Một quá khứ tử tế, ăn ở phúc đức nhưng đổi lại chỉ là một hiện thực cay đắng : con trai ăn chơi, phá của đến nỗi “bán ruộng, cầm nhà” khiến bà thành tật nguyền, nghèo khổ và đứa cháu họ vô ơn bạc nghĩa đối xử với ân nhân của mình không ra gì. Hiện tại bà cụ chẳng gặp lành dù ngày trước đã ăn ở rất hiền lành, hiện tại người ta vong ân dù quá khứ vốn chịu nhiều ơn cứu giúp của bà – những đối nghịch thời gian đi kèm với nghịch lí cuộc đời khiến câu chuyện cứ ám ảnh chúng ta mãi.
Trong diễn tiến cuộc đời cơ cực của bà lão tội nghiệp chịu cảnh tật nguyền sống nhờ nhục nhã bỗng xuất hiện ba câu chuyện nhỏ về những hành động nhân đức của một người phụ nữ : thấy người ăn mày lụ khụ đến xin ăn bị mấy con chó “nhảy xổ ra cắn xa xả”, bà đã “quát thằng nhỏ ra mắng chó, dắt ông ăn mày vào thết một lưng cơm”; trước gia cảnh bác nhiêu B. vợ chết, nhà bị hỏa hoạn, đàn con nheo nhóc, đói kém, bà đã “cởi hầu bao, lấy ra một cuộn giấy bạc” đem cho; và cuối cùng trước cảnh đau xót của một người phụ nữ phải bán con để mong cứu chồng bệnh liệt giường liệt chiếu đã hơn nửa tháng, bà cũng đã cho năm đồng về lo thuốc men cho chồng mà không phải bán con. Đến cuối cùng Vũ Trọng Phụng mới cho ta biết hóa ra đó chính là bà lão lòa tội nghiệp bây giờ. Ba câu chuyện nhỏ về sự phúc đức để góp phần làm rõ một nghịch lí : bà đã từng rất tử tế với người không ruột thịt thân thích, bà đã từng động lòng trắc ẩn trước bao số phận vật vờ tận đáy cuộc đời; song giờ đây, người thân thích ruột rà không mảy may động lòng xót xa cho thân già tật nguyền cô độc của bà, nhẫn tâm tàn tệ với bà hơn cả với người dưng nước lã, đay nghiến chà đạp lên thân phận sống nhờ đầy nghịch cảnh bà đang phải chịu. Trần thuật với kết cấu “truyện lồng trong truyện”, Vũ Trọng Phụng đã dựng lên sự đối lập gay gắt giữa quá khứ và thực tại, giữa thiện tâm và ác tâm, giữa vị tha và ích kỉ để phê phán sự bội bạc, bất nhân của người đời và tố cáo cái nghèo làm nhân cách con người dần thảm hại như nó.
Đề thi giữa kì 2 Ngữ văn lớp 10 Cánh diều có đáp án năm 2024 – Đề 2
Phòng Giáo dục và Đào tạo …
Đề thi Giữa kì 2 – Cánh diều
Năm học 2023 – 2024
Môn: Ngữ Văn lớp 10
Thời gian làm bài: phút
(Không kể thời gian phát đề)
(Đề số 2)
Phần 1: Đọc hiểu (6 điểm)
Đọc bài thơ sau và trả lời câu hỏi:
GƯƠNG BÁU KHUYÊN RĂN (Bài 43)
Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hoè lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương.
(Nguyễn Trãi)
Câu 1 (0,5 điểm). Câu thơ “Rồi hóng mát thuở ngày trường” gợi điều gì về nhân vật trữ tình?
A. Con người bon chen, tất bật
B. Con người nhàn nhã thư thái
C. Con người vất vả mệt mỏi
D. Con người buồn bã, đau khổ
Câu 2 (1,0 điểm). Xác định các loài hoa và màu sắc đặc trưng của từng loài? Cảnh ngày hè được miêu tả như thế nào?
Câu 3 (1,0 điểm). Câu thơ: Lao xao chợ cá làng ngư phủ sử dụng biện pháp tu từ nào? Tác dụng của biện pháp đó?
Câu 4 (0,5 điểm). Từ láy “lao xao” có tác dụng biểu hiện cuộc sống như thế nào?
Câu 5 (1,0 điểm). Nội dung chủ đạo mà anh/chị cảm nhận được từ bài thơ Cảnh ngày hè là gì?
Câu 6 (2,0 điểm). Viết đoạn văn ngắn (5 đến 7 dòng) bày tỏ suy nghĩ bài học lấy dân làm gốc trong cuộc sống hôm nay từ văn bản trên.
Phần 2: Viết (4 điểm)
Anh/chị hãy viết bài văn nghị luận về lí tưởng sống của thanh niên ngày nay.
HƯỚNG DẪN CHẤM
Phần 1: Đọc hiểu (6 điểm)
Câu |
Đáp án |
Điểm |
Câu 1 |
B. Con người nhàn nhã thư thái |
0,5 điểm |
Câu 2 |
Các loài hoa và màu sắc đặc trưng của từng loài: – Hoa hòe màu xanh. – Hoa lựu màu đỏ. – Hoa sen màu hồng. Cảnh ngày hè được miêu tả: bình dị, nhiều màu sắc và âm thanh với những sự vậy đặc trưng của mùa hè. |
1,0 điểm |
Câu 3 |
Câu thơ: Lao xao chợ cá làng ngư phủ sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ. → Tác dụng của biện pháp này là: Nhấn mạnh vào âm thanh huyên náo của chợ cá. |
1,0 điểm |
Câu 4 |
Từ láy “lao xao” có tác dụng biểu hiện cuộc sống sống động, thể hiện cuộc sống no đủ và hạnh phúc của người dân. |
0,5 điểm |
Câu 5 |
Nội dung chủ đạo mà em cảm nhận được từ bài thơ Cảnh ngày hè là Tâm hồn yêu thiên nhiên và yêu quê hương, đất nước của Nguyễn Trãi. |
1,0 điểm |
Câu 6 |
HS trình bày suy nghĩ bài học lấy dân làm gốc trong cuộc sống hôm nay từ văn bản trên. + Đảm bảo yêu cầu hình thức: đoạn văn. + Đảm bảo yêu cầu nội dung. Gợi ý: – Từ niềm khát khao dân giàu của Nguyễn Trãi, HS suy nghĩ về bài học lấy dân làm gốc trong cuộc sống hôm nay. – Cần làm rõ các ý: lấy dân làm gốc là gì? Tại sao phải lấy dân làm gốc? Ý nghĩa của việc lấy dân làm gốc? Bài học nhận thức và hành động? |
2,0 điểm |
Phần 2: Viết (4 điểm)
Câu |
Đáp án |
Điểm |
|
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài khái quát được vấn đề. |
0,25 điểm
0,25 điểm
2,5 điểm
0,5 điểm
0,5 điểm |
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận Lí tưởng sống của thanh niên ngày nay. |
||
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Dưới đây là một vài gợi ý cần hướng tới: 1. Mở bài Giới thiệu và dẫn dắt vào vấn đề cần nghị luận: Lí tưởng sống của thanh niên hiện nay. 2. Thân bài a. Giải thích – Lí tưởng sống: những suy nghĩ, hành động tích cực của con người, hướng đến những điều tốt đẹp và cao cả. Lí tưởng sống ảnh hưởng quan trọng đến suy nghĩ và hành động của giới trẻ đặc biệt là các bạn thanh niên hiện nay. Mỗi người cần có cho mình một lí tưởng sống cao đẹp và cố gắng thực hiện hóa lí tưởng đó. b. Phân tích – Lí tưởng sống là kim chỉ nam cho cuộc sống của con người, người sống không có lí tưởng chỉ là tồn tại, sẽ cảm thấy cuộc đời thật nhàm chán, không có gì thú vị, lâu dần dẫn đến suy nghĩ và hành vi tiêu cực. – Lí tưởng sống là động lực để con người vươn lên, tạo dựng cho mình những giá trị tốt đẹp, hướng chúng ta đến những điều hay lẽ phải, tránh xa – Lí tưởng sống mang lại nhiều lợi ích cho con người, nó khiến cho chúng ta tốt hơn, rèn luyện được những đức tính tốt đẹp khác cũng như mang con người đến gần nhau hơn. c. Chứng minh HS lấy dẫn chứng về những người trẻ sống có lí tượng nổi bật, tiêu biểu mà được nhiều người biết đến để minh họa cho bài làm văn của mình. d. Liên hệ bản thân Mỗi người học sinh chúng ta trước hết phải sống có ước mơ, hoài bão, nỗ lực học tập, trau dồi bản thân để thực hiện ước mơ đó. Sống chan hòa, yêu thương mọi người, bỏ qua cái tôi cá nhân để hướng đến cái ta chung để cống hiến nhiều hơn cho xã hội. 3. Kết bài Khái quát lại tầm quan trọng của lí tưởng sống đối với giới trẻ. |
||
d. Chính tả, ngữ pháp Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt. |
||
e. Sáng tạo – Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ. |
MA TRẬN ĐỀ KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ II
TT |
Kĩ năng |
Nội dung |
Mức độ nhận thức |
Tổng |
|||||||
Nhận biết |
Thông hiểu |
Vận dụng |
Vận dụng cao |
||||||||
TN |
TL |
TN |
TL |
TN |
TL |
TN |
TL |
||||
1 |
Đọc hiểu |
Thơ văn Nguyễn Trãi |
1 |
2 |
0 |
2 |
0 |
1 |
0 |
|
60 |
2 |
Viết |
Viết bài văn nghị luận về một vấn đề xã hội |
0 |
1* |
0 |
1* |
0 |
1* |
0 |
1* |
40 |
Tổng |
5 |
20 |
0 |
35 |
0 |
30 |
0 |
10 |
100 |
||
Tỉ lệ % |
25% |
35% |
30% |
10% |
|
||||||
Tỉ lệ chung |
60% |
40% |
|
Đề thi giữa kì 2 Ngữ văn lớp 10 Cánh diều có đáp án năm 2024 – Đề 3
Phòng Giáo dục và Đào tạo …
Đề thi Giữa kì 2 – Cánh diều
Năm học 2023 – 2024
Môn: Ngữ Văn lớp 10
Thời gian làm bài: phút
(Không kể thời gian phát đề)
(Đề số 3)
Phần 1: Đọc hiểu (5 điểm)
Đọc bài thơ sau và trả lời câu hỏi:
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải tiêu vong;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét.
Chứng cứ còn ghi.
(Theo Nước Đại Việt ta, trích trong Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi)
Câu 1 (1,0 điểm). Chỉ ra thể loại và phương thức biểu đạt chính của bài thơ chứa đoạn trích?
Câu 2 (0,5 điểm). Qua đoạn trích, từ các thông tin lịch sử ở đoạn 2, anh/chị hiểu văn bản được viết trong hoàn cảnh lịch sử nào?
Câu 3 (0,5 điểm). Khái quát nội dung chính của đoạn trích.
Câu 4 (1,0 điểm). Qua hai câu “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân – Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”, có thể hiểu cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa của tác giả là gì?
Câu 5 (1,0 điểm): Để khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc, tác giả đã dựa vào những yếu tố nào? Thể hiện qua các chi tiết nào?
Câu 6 (1,0 điểm): Vì sao có thể nói đoạn trích “Nước Đại Việt ta” là sự tiếp nối và phát triển ý thức dân tộc ở bài thơ “Sông núi nước Nam”?
Phần 2: Viết (5 điểm)
Anh/chị hãy viết bài văn nghị luận về câu ca dao “Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.
MA TRẬN ĐỀ KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ II
TT |
Kĩ năng |
Nội dung |
Mức độ nhận thức |
Tổng |
|||||||
Nhận biết |
Thông hiểu |
Vận dụng |
Vận dụng cao |
||||||||
TN |
TL |
TN |
TL |
TN |
TL |
TN |
TL |
||||
1 |
Đọc hiểu |
Thơ văn Nguyễn Trãi |
0 |
3 |
0 |
2 |
0 |
1 |
0 |
|
50 |
2 |
Viết |
Viết bài văn nghị luận về một vấn đề xã hội |
0 |
1* |
0 |
1* |
0 |
1* |
0 |
1* |
50 |
Tổng |
0 |
25 |
0 |
35 |
0 |
30 |
0 |
10 |
100 |
||
Tỉ lệ % |
25% |
35% |
30% |
10% |
|
||||||
Tỉ lệ chung |
60% |
40% |
|