Tiếng Việt lớp 3 Tập 2 Bài 16: Bảo vệ Tổ quốc
Đọc: Chú hải quân trang 66, 67, 68
Chia sẻ
Tiếng Việt lớp 3 trang 66 Câu 1: Nói điều em biết về những người trong mỗi tranh dưới đây
Trả lời:
Những người trong tranh: Hải quân, bộ binh, pháo binh, đặc công – Những chiến sĩ bảo vệ Tổ quốc.
Tiếng Việt lớp 3 trang 66 Câu 2: Nghe hoặc hát một bài hát về chú bộ đội
Trả lời:
Bài hát Chú bộ đội của nhạc sỹ Hoàng Hà. Bài hát là tình cảm của các cháu thiếu nhi đối với chú bộ đội yêu quý của mình bằng tình cảm chân thành nhất. Và niềm tự hào vì chú “Chú bộ đội chúng cháu yêu chú lắm / Súng chắc trong tay chú canh giữ cho hòa bình “.
Vai chú mang súng mũ cài ngôi sao đẹp xinh.
Đi trong hàng ngũ chú hành quân trông thật nhanh.
Chú bộ đội chúng cháu yêu chú lắm.
Súng chắc trong tay chú canh giữ cho hòa bình.
Canh giữ biên giới giữ trời xanh xanh của ta.
Canh nơi biển cả giữ tiền tiêu nơi đảo xa
Chú bộ đội chúng cháu yêu chú lắm.
Nhớ chú bao nhiêu cháu ca múa cho thật nhiều
Bài đọc
Chú hải quân
Vững vàng trên đảo nhỏ
Bồng súng gác biển trời
Áo bạc nhàu nắng gió
Chú mỉm cười rất tươi.
Giữa trập trùng xa khơi
Hải âu vờn quanh chú
Bên đảo đá chơi vơi
Dạt dào ngàn sóng vỗ.
Dù nắng mưa, bão tố
Các chú vẫn hiên ngang
Bao tàu thuyền qua đó
Kéo còi chào ngân vang.
Lá cờ đỏ sao vàng
Phấp phới bay trong gió
Ước mai này như chú
Giữ yên biển quê hương.
Hoài Khánh
Đọc hiểu
Tiếng Việt lớp 3 trang 68 Câu 1: Những hình ảnh nào nói lên khó khăn, gian khổ của chú hải quân?
Trả lời:
Những hình ảnh nói lên khó khăn, gian khổ của chú hải quân là: Áo bạc nhàu nắng gió, đảo đá chơi vơi, nắng mưa, bão tố
Tiếng Việt lớp 3 trang 68 Câu 2: Tìm những hình ảnh đẹp của chú hải quân đứng gác.
Trả lời:
Bồng súng gác biển trời
Chú mỉm cười rất tươi
Các chú vẫn hiên ngang.
Tiếng Việt lớp 3 trang 68 Câu 3: Hình ảnh nào trong khổ thơ 4 khẳng định chủ quyền biển, đảo của Việt Nam?
Trả lời:
Hình ảnh Lá cờ đỏ sao vàng/ Phấp phới bay trong gió trong khổ thơ 4 khẳng định chủ quyền biển, đảo của Việt Nam?
Tiếng Việt lớp 3 trang 68 Câu 4: Hai dòng thơ cuối nói lên ước mong gì của bạn nhỏ?
Trả lời:
Hai dòng thơ cuối nói lên ước mong sau này sẽ trở thành chú hải quân để bảo vệ biển đảo quê hương.
Luyện tập
Tiếng Việt lớp 3 trang 68 Câu 1: Đặt câu bày tỏ cảm xúc của em:
a) Trước những khó khăn, gian khổ của chú hải quân.
b) Trước những hình ảnh đẹp của chú hải quân.
Trả lời:
a) Trước những khó khăn, gian khổ của chú hải quân: Ôi, thật ngưỡng mộ tinh thần bảo vệ Tổ quốc của các chú hải quân!
b) Trước những hình ảnh đẹp của chú hải quân: Hình ảnh chú hải quân hiên ngang chắc tay súng bảo vệ Tổ quốc thật đẹp!
Tiếng Việt lớp 3 trang 68 Câu 2: Dấu câu nào phù hợp với mỗi ô trống: Dấu hai chấm, dấu ngoặc kép hay dấu chấm than?
Trả lời:
Ô trống 1: Dấu hai chấm
Ô trống 2: Dấu chấm than
Ô trống 3: Dấu ngoặc kép
Ô trống 4: Dấu ngoặc kép
Tự đọc sách báo trang 68
Tiếng Việt lớp 3 trang 68 Câu 1: Tìm đọc thêm ở nhà:
– 2 câu chuyện (hoặc 1 bài thơ, 1 câu chuyện) về bảo vệ Tổ quốc
– 1 bài văn miêu tả hoặc cung cấp thông tin về bảo vệ Tổ quốc
Trả lời:
– 2 câu chuyện (hoặc 1 bài thơ, 1 câu chuyện) về bảo vệ Tổ quốc
Sự dũng cảm
Em sinh ra và lớn lên ở Hội An – một thành phố cổ khá nổi tiếng. Nhưng không vì thế mà ở đây không có chiến tranh. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, đã có một người phụ nữ từng dũng cảm đứng dậy đấu tranh. Đó là chị Huỳnh Thị Lựu,
Huỳnh Thị Lựu sinh ra ở vùng đất Cẩm Thanh. Từ khi còn nhỏ, chị đã có tinh thần yêu nước và tấm long căm thù giặc nồng nàn. Chị đã tham gia vào đội du kích quê nhà khi còn rất nhỏ. Lúc đầu làm giao liên, sau chị chuyển qua y tá. Mặc dù phải thức khuya dậy sớm, chị vẫn rất nổ lực và luôn hoàn thành công việc được giao một cách xuất sắc. Khi thì đi chuyển công văn, khi thì đi đưa đón cán bộ, có khi chị còn giả trang đi diệt những tên ác ôn. Cũng bởi vì thế nên mọi người trong đội ai cũng yêu mến chị.
Sau đó, chị được chuyển qua bộ đội địa phương và làm Y tá trưởng Đại đội 2 đặc công của thị xã Hội An. Hơn 2 năm, Lựu đã đi tung hoành khắp nơi để chống trả các cuộc càn quét. Trận nào chị cũng có mặt, vừa chiến đấu vừa chữa trị cho thương binh.
Đầu năm 1969, chị theo đơn vị đánh chiếm nội ô thị xã. Chỉ trong vòng chưa đầy 2 ngày đơn vị đã chiếm được toàn bộ trận địa. Riêng chị Lựu không chỉ băng bó cho các anh em bị thương mà còn tự tay cầm súng chiến đấu. Trong một trận phản kích của địch, sau 3 lần đánh trả, Lựu bị thương rất nặng, máu ra nhiều, sức lực giảm, súng hết đạn, địch lại tăng quân bao vây chặt nơi Lựu đang ẩn nấp. Tuy đã rất nguy ngập, chị vẫn không muốn rơi vào tay địch. Đợi giặc đến thật đông, chị dùng hết sức lực cuối cùng của mình đập gãy khẩu sung rồi tung quả pháo cuối cùng. Hàng chục tên địch chết nhưng chị cũng đã anh dũng hi sinh.
Hiện nay, thành phố Hội An để ghi nhớ công lao của chị đã đặt tên một trường học theo tên chị, Huỳnh Thị Lựu. Và em chắc chắn rằng, hôm nay và mãi về sau, mọi người sẽ luôn nhớ đến chị – một người con gái gan dạ của vùng đất phổ cổ đã từng một thời chiến tranh…
Tổ quốc gọi tên
Nguyễn Phan Quế Mai
Đêm qua tôi nghe Tổ quốc gọi tên mình
Bằng tiếng sóng Trường Sa, Hoàng Sa dội vào ghềnh đá
Tiếng Tổ quốc vọng về từ biển cả
Nơi bão tố dập dồn, chăng lưới, bủa vây
Tổ quốc của tôi, Tổ quốc của tôi
Bốn nghìn năm chưa bao giờ ngơi nghỉ
Thắp lên ngọn đuốc Hòa bình, bao người đã ngã
Máu của người nhuộm mặn sóng biển Đông
Ngày hôm nay kẻ lạ mặt rập rình
Chúng ngang nhiên chia cắt tôi và Tổ quốc
Chúng dẫm đạp lên dáng hình đất nước
Một tấc biển cắt rời, vạn tấc đất đớn đau
Sóng chẳng còn bình yên dẫn lối những con tàu
Sóng quặn đỏ máu những người đã mất
Sóng cuồn cuộn từ Nam chí Bắc
Chín mươi triệu môi người thao thức tiếng “Việt Nam”
Chín mươi triệu người lấy thân mình chở che Tổ quốc linh thiêng
Để giấc ngủ trẻ thơ bình yên trong bão tố
Ngọn đuốc Hòa bình trên tay rực lửa
Tôi lắng nghe
Tổ quốc
gọi tên mình.
– 1 bài văn miêu tả hoặc cung cấp thông tin về bảo vệ Tổ quốc
Dân tộc Việt Nam có tinh thần yêu nước nồng nàn. Nhờ tinh thần yêu nước ấy, chúng ta đã giành được độc lập tự do, giành được chủ quyền của lãnh thổ mà tổ tiên ta từ ngàn đời gây dựng. Để xứng đáng là con cháu của các Vua Hùng, mỗi người dân phải có nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc phòng, ra sức xây dựng quê hương mỗi ngày một giàu đẹp hơn. Ngày nay, thế hệ trẻ chúng em ra sức thực hiện lời dạy của Bác, ra sức học tập để sau này trở thành những người có ích cho Tổ quốc.
Tiếng Việt lớp 3 trang 68 Câu 2: Viết vào phiếu đọc sách:
– Tên bài đọc và một số nội dung chính ( nhân vật hoặc sự việc, hình ảnh, câu văn, câu thơ em thích).
– Cảm nghĩ của em
Trả lời:
– Tên bài đọc: Sự dũng cảm và Tổ quốc gọi tên. Bài đọc nhắc đến tấm lòng của những người yêu nước.
– Sau khi đọc bài em thêm yêu và trân trọng hòa bình và có ý thức trong việc bảo vệ Tổ quốc.
Viết: Ôn chữ viết hoa: U, Ư trang 68
Tiếng Việt lớp 3 trang 68 Câu 1: Viết tên riêng: Uông Bí
Trả lời:
– Học sinh luyện viết tên riêng: Uông Bí
– Chú ý viết hoa các chữ cái U, B
Tiếng Việt lớp 3 trang 68 Câu 2: Viết câu:
Ước mai này như chú
Giữ yên biển quê hương.
(Hoài Khánh)
Trả lời:
– Cách viết:
+ Viết hoa chữ cái đầu câu: Ước, Giữ
+ Chú ý cách nối chữ, khoảng cách giữa các tiếng trong câu, độ cao của các chữ cái, cách đặt dấu phẩy giữa câu và dấu chấm cuối câu.
Nói và nghe: Chàng trai làng Phù Ủng trang 69
Tiếng Việt lớp 3 trang 69 Câu 1: Nghe và kể lại câu chuyện:
Trả lời:
Chàng trai làng Phù Ủng
Vào thời Trần, nước ta đứng trước họa xậm lăng nước sôi lửa bỏng. Vua Mông Cổ liên tiếp sai sứ sang đòi ngọc lụa, vơ vét vàng bạc để thỏa lòng tham không cùng. Lòng dân sục sôi căm giận.
Thủa ấy, ở làng Phù Ủng có chàng trai mồ côi bố, ở với mẹ già, tên là Phạm Ngũ Lão. Chàng có sức khỏe và võ nghệ phi thường, thông làu binh pháp, có tài mưu lược và giàu chí khí.
Một hôm, Phạm Ngũ Lão đang ngồi đan sọt dưới gốc đa cạnh đường làng thì có hàng ngàn hàng vạn binh mã rầm rập kéo qua làng, tiến về phía kinh thành Thăng Long. Gươm giáo sáng ngời, tinh kì phấp phới, tiếng trống, tiếng ngựa hí vang cả một góc trời.
Thế nhưng, chàng trai làng Phù Ủng vẫn mải mê đan sọt, chẳng hề biết gì. Trước tiếng hô, tiếng thét của đội lính đi tiên phong dẹp đường, chàng cũng không nhúc nhích. Một người lính đã đâm giáo nhọn vào đùi, máu chảy ra, chàng trai đan sọt vẫn im bất động. Chuyện lạ làm náo động cả đoàn quân.
Đại Vương Trần Quốc Tuấn ngạc nhiên cho dẫn chàng trai đến trước kiệu để hỏi. Cặp mắt sáng ngời, tướng mạo phi thường của chàng trai chân đất áo vải đã làm cho vị Đạt Tướng rất có cảm tình. Vương hỏi:
– Tại sao quân quan rầm rộ trẩu kinh mà nhà người không chịu dẹp dường? Sao bị giáo dâm vào đùi mà vẫn ngồi yên?
– Thưa Đại Vương, kẻ quê mùa này đang mất ăn mất ngủ trước cơn nguy biến của sơn hà. Chỉ muốn đem võ nghệ, chí làm trai để đánh giặc, đền ơn vua, trả nợ nước.
Vương mừng lắm, hỏi về gia cảnh, học vấn, cùng kiếm, con quyền, binh pháp binh thư…Vương hỏi đến đâu, chàng trai áo vải trả lời thông thuộc đến đó. Vương mừng thầm, biết là đã gặp được một tài trai lỗi lạc.
Sau khi sai quan thái y rịt thuốc, Vương đưa chàng trai về Thăng Long. Phạm Ngũ Lão sớm trở thành một võ tướng tài ba, lập bao chiến công hiển hách trong cuộc kháng chiến lần thứ hai và lần thứ ba đánh quân Mông Cỏ.
Ngày này, tại đền Kiếp Bạc thờ Hưng Đạo Đại Vườn Trần quốc Tuấn, phía dưới bên phải tượng Đức Thành Trần, khách thập phương còn nhìn thấy tượng Phạm Ngũ Lão sơn son thiếp vàng trong dáng vẻ uy nghiêm, tráng lệ.
Tiếng Việt lớp 3 trang 69 Câu 2: Trao đổi:
– Phạm Ngũ Lão là người như thế nào?
– Em thích nhất chi tiết nào trong câu truyện? Vì sao?
Trả lời:
– Phạm Ngũ Lão có sức khỏe và võ nghệ phi thường, thông làu binh pháp, có tài mưu lược và giàu chí khí và rất dũng cảm.
– Em thích chi tiết chàng ham đọc sách đến mức binh sĩ dâm giáo vào đùi không biết vì nó rất hay và thể hiện tinh thần ham học cao độ của ông.
Đọc: Hai Bà Trưng trang 69, 70, 71
Bài đọc
Hai bà Trưng
Thuở xưa, nước ta bị giặc ngoại xâm đô hộ. Chúng thẳng tay chém giết dân lành, cướp hết ruộng nương màu mỡ. Chúng bắt dân ta lên rừng săn thú lạ, xuống biển mò ngọc trai, khiến bao người thiệt mạng chỉ vì hổ báo, cá sấu, thuồng luồng…Lòng dân oán hận ngút trời, chỉ chờ dịp vùng lên đánh đuổi quân xâm lược.
Bấy giờ, ở huyện Mê Linh có hai người con gái tài giỏi là Trưng Trắc và Trưng Nhị. Cha mất sớm, nhờ mẹ dạy dỗ, hai chị em đều giỏi võ nghệ và nuôi chí giành lại non sông. Chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách cùng cùng chí hướng với vợ. Tướng giặc Tô Định biết vậy, lập mưu giết chết Thi Sách.
Nhận được tin dữ, Hai Bà Trưng liền kéo quên về thành Luy Lâu hỏi tội kẻ thù. Trước lúc trẩy quân, có người xin nữ chủ tướng cho mặc đồ tang. Trưng Trắc trả lời:
– Không! Ta sẽ mặc giáp phục thật đẹp để dân chúng thêm phấn khích, còn giặc trông thấy thì kinh hồn.
Hai Bà Trưng bước lên bành voi. Đoàn quân rùng rùng lên đường. Giáo lao, cung nỏ, rìu búa, khiên mộc cuồn cuộn tràn theo bóng voi ẩn hiện của Hai Bà. Tiếng trống đồng dội lên vòm cây, đập vào sườn đồi, theo suốt đường hành quân.
Thành trì quân giặc lần lượt sụp đổ dưới chân của đoàn quân khởi nghĩa. Tô Định ôm đầu chạy về nước. Đất nước ta sạch bóng quân thù. Hai Bà Trưng trở thành hai vị anh hùng chống ngoại xâm đầu tiên trong lịch sử nước nhà.
Theo Văn Lang
Đọc hiểu
Tiếng Việt lớp 3 trang 71 Câu 1: Tìm đoạn văn ứng với mỗi ý sau:
a) Tội ác của giặc ngoại xâm
b) Chí lớn giành lại non sông
c) Khí thế của nghĩa quân
d) Khởi nghĩa thắng lợi
Trả lời:
a) Tội ác của giặc ngoại xâm. Từ Thuở xưa, nước ta bị giặc ngoại xâm… đến… đuổi quân xâm lược.
b) Chí lớn giành lại non sông. Từ Bấy giờ, ở huyện Mê Linh… đến giết chết Thi Sách.
c) Khí thế của nghĩa quân. Từ Nhận được tin dữ… đến suốt đường hành quân.
d) Khởi nghĩa thắng lợi. Từ Thành trì quân giặc lần lượt sụp đổ…đến trong lịch sử nước nhà.
Tiếng Việt lớp 3 trang 71 Câu 2: Giặc ngoại xâm gây ra những tội ác như thế nào đối với nhân dân ta?
Trả lời:
Giặc ngoại xâm gây ra những tội ác đối với nhân dân ta:
– Thẳng tay chém giết dân lành, cướp hết ruộng nương màu mỡ.
– Bắt dân ta lên rừng săn thú lạ, xuống biển mò ngọc trai, khiến bao người thiệt mạng chỉ vì hổ báo, cá sấu, thuồng luồng…
Tiếng Việt lớp 3 trang 71 Câu 3: Tìm những chi tiết thể hiện:
a) Tài năng và chí lớn của Hai Bà Trưng
b) Khí phách hiên ngang của Hai Bà Trưng
Trả lời:
a) Tài năng và chí lớn của Hai Bà Trưng
– Giỏi võ nghệ và nuôi chí giành lại non sông.
b) Khí phách hiên ngang của Hai Bà Trưng
– Khi chồng của bà Trưng Trắc là Thi Sách bị giết chết, có người xin mặc áo tang bà trả lời: – Không! Ta sẽ mặc giáp phục thật đẹp để dân chúng thêm phấn khích, còn giặc trông thấy thì kinh hồn.
Tiếng Việt lớp 3 trang 71 Câu 4: Những hình ảnh nào nói lên khí thế oai hùng và thắng lợi vang dội của đoàn quân khỏi nghĩa?
Trả lời:
– Đoàn quân rùng rùng trên đường. Giáo lao, cung nỏ, rìu búa, khiên mộc cuồn cuộc tràn theo bóng voi ẩn hiện của Hai Bà, tiếng trống đồng dội lên vòm cây, đập vào sườn đồi.
Luyện tập
Tiếng Việt lớp 3 trang 71 Câu 1: Tìm các tên người, tên địa lí trong bài.
Trả lời:
Mê Linh, Trưng Trắc, Trưng Nhị, Hai Bà Trưng, Tô Định, Thi Sách.
Tiếng Việt lớp 3 trang 71 Câu 2: Các tên người, tên địa lí được viết hoa như thế nào?
Trả lời:
– Các tên người, tên địa lí được viết hoa chữ cái đầu mỗi từ: Mê Linh
Viết: về người anh hùng trang 71
Tiếng Việt lớp 3 trang 71 Câu 1: Viết đoạn văn về một anh hùng chống giặc ngoại xâm mà em biết
Trả lời:
Mẫu 1:
Danh tướng Lý Thường Kiệt là một trong những vị anh hùng để lại ấn tượng vô cùng sâu sắc trong em. Bài thơ Nam Quốc sơn hà mà rất nhiều thế hệ người Việt Nam thuộc nằm lòng chính là bài thơ được ông sáng tác:
Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!
(Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời!)
Nhưng ngoài tài văn chương thơ phú, tấm lòng, tinh thần và những đóng góp của ông cho đất nước và dân tộc cũng là những vấn đề đáng được nói đến. Năm 1077, nhà Tống kéo quân sang xâm lược nước ta, Lý Thường Kiệt đã lãnh đạo nhân dân ta kháng chiến chống quân giặc và giành thắng lợi. Chiến lược đánh giặc của ông cũng rất hay. Cũng chính nhờ bài thơ Nam quốc sơn hà trên của ông được lan truyền đi khắp nơi, đến tai quân giặc và khiến chúng hoang mang, hoảng sợ trước khí thế của dân tộc ta, đóng góp phần công sức tinh thần làm cho quân giặc đại bại, phải cầu hòa xin về nước.
Lý Thường Kiệt được ghi nhận là một trong số những anh hùng kiệt xuất của dân tộc Việt Nam. Một danh tướng văn võ song toàn rất đáng được ghi nhận. Em rất khâm phục tinh thần trượng nghĩa anh hùng và tấm lòng yêu nước thương dân của ông.
Mẫu 2:
Ngô Quyền là vị vua đầu tiên của nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam. Ông là người lãnh đạo nhân dân ta trong cuộc khởi nghĩa chống lại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Trận chiến này đã giúp nhân dân ta thoát khỏi hơn một nghìn năm bị triều đình phương Bắc đô hộ. Từ đó đã mở ra một thời kì độc lập cho dân tộc. Ngô Quyền ghi danh vào trang sử hào hùng của dân tộc không chỉ là vị tướng tài năng, mà còn là người đầu tiên “mở nước xưng Vương”, đặt nền móng cho độc lập, tự chủ thực sự và lâu dài của dân tộc. Ông chính là vị anh hùng dân tộc mà em rất yêu mến và kính trọng.
Tiếng Việt lớp 3 trang 71 Câu 2: Giới thiệu và bình chọn những đoạn văn hay
Trả lời:
– Em cùng giới thiệu và bình chọn những đoạn văn hay.
Đọc: Trận đánh trên không trang 72, 73
Bài đọc
Trận đánh trên không
Hai chiếc Mích bám theo nhau cùng vút lên trong khoảng trời xanh lóa nắng. Phía dưới Lương và Sáu, mây đã mỏng và thưa đi, để lộ những dãy núi phơi sống lưng lởm chởm.
– Thăng Long! Mục tiêu phía trước, 12 cây.
– Thăng Long nghe rõ! Tiếng Sáu đanh gọn trả lời.
Thấp thoáng trong mấy mỏng, một thằng địch đang bay là là trên những ngọn núi.
– Xin phép công kích.
– Cho công kích!
Lương đâm xuống ngay trên lưng thằng địch, bắn một loạt đạn. Những đốm lửa đỏ phùn phụt bay về phía trước. Lương vọt lên, vượt qua thằng địch. Nó vẫn bay ngoằn ngoèo.
Chiếc Mích vòng lại, nghiêng cánh bổ xuống lần thứ hai. Chiếc máy bay địch màu càng bẩn cứ mỗi giây một to thêm, lấp đầy cả vòng kính ngắm. Lương bóp cò. Anh có cảm tưởng như đang túm tận gáy thằng địch mà quật xuống. Những đốm đỏ xuyên thẳng vào đầu và cánh chiếc máy bay Mỹ. Những mảnh kim khí và mi ca bắn tung tóe. Một bên cánh của nó văng rời hẳn ra, lửa bốc lem lém lần với khói.
– Cháy rồi! Nó nhảu dù! – Tiếng Sáu reo liên tiếp.
Lương vọt lên cao. Anh còn kịp thấy mở ra hai rồi ba chiếc dù đung đưa.
Theo Nguyễn Đình Thi
Đọc hiểu
Tiếng Việt lớp 3 trang 73 Câu 1: Chú Lương và chú Sáu là ai? Họ có nhiệm vụ gì?
Trả lời:
Chú Lương và chú Sáu là những phi công trên chiến trường. Họ có nhiệm vụ là bắn phá máy bay địch.
Tiếng Việt lớp 3 trang 73 Câu 2: Em hiểu những lời đối thoại ở đoạn 1 và đoạn 2 là của ai?
Trả lời:
Những lời đối thoại ở đoạn 1 và đoạn 2 là của các hai chiến sĩ nói về mục tiêu.
Tiếng Việt lớp 3 trang 73 Câu 3: Máy bay địch đã bị chiếc Mích của ta hạ gục như thế nào?
Trả lời:
Máy bay của địch đã bị chiếc Mích của ta hạ gục qua chi tiết “Lương đâm xuống ngay trên lưng thằng địch, bắn một loạt đạn. Những đốm lửa đỏ phung phụt bay về phía trước. Lương vọt lên, vượt qua thằng địch. Chiếc Mích vòng lại, nghiêng cánh bổ xuống lần thứ hai… Những mảnh kim khí và mi ca bay tung tóe.”
Tiếng Việt lớp 3 trang 73 Câu 4: Những chi tiết nào nói lên lòng dũng cảm và quyết tâm của các chiến sĩ hạ gục máy bay địch.
Trả lời:
Lương bóp cò. Anh có cảm tưởng như đang túm tận gáy thằng địch mà quật xuống. Những đốm đỏ xuyên thẳng vào đầu và cánh chiếc máy bay Mỹ.
Luyện tập
Tiếng Việt lớp 3 trang 73 Câu 1: Những câu nào trong bài đọc là lời nói của nhân vật? Dấu câu nào cho em biết điều đó?
Trả lời:
Những câu là lời nói nhân vật:
– Thăng Long! Mục tiêu phía trước, 12 cây.
– Thăng Long nghe rõ!
– Xin phép công kích.
– Cho công kích!
– Cháy rồi! Nó nhảy dù!
Dấu gạch ngang trước mỗi câu cho em biết đó là lời thoại trực tiếp của nhân vật.
Tiếng Việt lớp 3 trang 73 Câu 2: Chọn dấu câu phù hợp để thay ngôi sao trong câu dưới đây.
Trả lời:
Sử dụng dấu gạch ngang (-)
Tiếng Việt lớp 3 trang 73 Câu 3: Chuyển câu trong dấu ngoặc kép thành lời nói trực tiếp được đánh dấu bằng dấu gạch ngang:
Lương gọi: “Báo cáo Trường Sơn, Hai Mươi Hai đã nhảy dù”.
Trả lời:
Lương gọi:
– Báo cáo Trường Sơn, Hai Mươi Hai đã nhảy dù.
Viết: Trần Bình Trọng trang 74, 75
Tiếng Việt lớp 3 trang 74 Câu 1: Nghe – viết:
Trả lời:
Trần Bình Trọng
Năm 1285, giặc Nguyên sang cướp nước ta. Trần Bình Trọng chỉ huy một cánh quân, không may sa vào tay giặc. Giặc dụ dỗ ông đầu hàng, hứa phong tước vương cho. Trần Bình Trọng khảng khái trả lời: “Ta thà làm ma nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc.”. Giặc tức giận giết ông. Khi ấy, ông mới 26 tuổi.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam
Học sinh chú ý viết đúng chính tả những từ ngữ dễ dai: dụ dỗ, phong tước, tức giận, khảng khái.
Tiếng Việt lớp 3 trang 74 Câu 2: Chọn chữ phù hợp với ô trống:
a) Chữ l hay n?
Các anh về
Xôn xao …àng bé nhỏ.
Nhà …á đơn sơ
Tấm …òng rộng mở
…ồi cơm …ấu dở
Bát …ước chè xanh
Ngồi vui kể chuyện tâm tình bên nhau.
Hoàng Trung Thông
b) Chữ v hay d
Rừng xa …ọng tiếng chim gù
Ngân nga tiếng suối, …i …u gió ngàn.
Mùa xuân đẫm lá ngụy trang
Đường ra tiền tuyến nở …àng hoa mai.
Ba lô nặng, súng cầm tay
Đường xa biết mấy …ặm …ài nhớ thương.
Lê Anh Xuân
Trả lời:
a) Chữ l hay n?
Các anh về
Xôn xao làng bé nhỏ.
Nhà lá đơn sơ
Tấm lòng rộng mở
Nồi cơm nấu dở
Bát nước chè xanh
Ngồi vui kể chuyện tâm tình bên nhau.
Hoàng Trung Thông
b) Chữ v hay d
Rừng xa vọng tiếng chim gù
Ngân nga tiếng suối, vi vu gió ngàn.
Mùa xuân đẫm lá ngụy trang
Đường ra tiền tuyến nở vàng hoa mai.
Ba lô nặng, súng cầm tay
Đường xa biết mấy dặm dài nhớ thương.
Lê Anh Xuân
Tiếng Việt lớp 3 trang 75 Câu 3: Thi tìm nhanh những từ gồm 2 tiếng:
a) Cả 2 tiếng đều bắt đầu bằng l hoặc n. M: long lanh, no nê.
b) Cả 2 tiếng đều bắt v hoặc d. M: vững vàng, dẻo dai.
Trả lời:
a) – Cả hai tiếng đều bắt đầu bằng l: lỏng lẻo, long lanh, lóng lánh, lung linh, lơ lửng, lấp lửng, lập lờ, lặng lẽ, lững lờ, lấm láp, lọ lem, lộng lẫy, lớn lao, lố lăng, lộ liễu.
– Có hai tiếng đều bắt đầu bằng n: nóng nảy, nặng nề, não nùng, năng nổ, non nớt, nõn nà, nông nổi, no nê, náo nức, nô nức.
b) Cả 2 tiếng đều bắt v: vi vu, vui vẻ, vang vọng, vô vọng, vẽ vời.
Nói và nghe: Em đọc sách báo trang 75, 76
Tiếng Việt lớp 3 trang 75 Câu 1: Kể hoặc đọc lại một câu chuyện (bài thơ, bài văn) về đề tài bảo vệ Tổ quốc mà em đã đọc ở nhà.
Trả lời:
Chị Võ Thị Sáu
Tuổi thơ em luôn tràn ngập những câu chuyện của bà. Đó là thế giới của những nhân vật cổ tích, của những người anh hung dũng cảm hy sinh về đất nước. Trong đó, em luôn nhớ câu chuyện về người nữ anh hùng Võ Thị Sáu.
Võ Thị Sáu sinh ra ở huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa, một miền quê với truyền thống yêu nước. Từ nhỏ chị Sáu đã chứng kiến cảnh thực dân Pháp giết chóc đồng bào. Bởi vậy 14 tuổi, chị Võ Thị Sáu đã theo anh gia nhập Việt Minh, trốn lên chiến khu chống Pháp. Chị tham gia đội công an xung phong, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ liên lạc, tiếp tế. Chị đã lập nhiều chiến tích vang dội, diệt trừ tên ác ôn và nhiều lần phát hiện gian tế.
Tháng 7/1948, Công an Đất Đỏ được giao nhiệm vụ phá cuộc mít tinh kỷ niệm Quốc khánh Pháp. Biết đây là nhiệm vụ gian nan, nguy hiểm, chị Sáu vẫn chủ động xin được trực tiếp đánh trận này. Chị đã ném lựu đạn về phía khán đài, uy hiếp giải tán mít tinh và hoàn thành nhiệm vụ được giao. Sau chiến công này, chị Sáu được tổ chức tuyên dương khen ngợi và được giao nhiệm vụ diệt tề trừ gian, bao gồm việc tiêu diệt tên cai tổng Tòng. Thế nhưng không may mắn một lần nhận nhiệm vụ ném lựu đạn chi đã bị giặc bắt. Chị bị tra tấn dã man nhưng không hề khai báo điều gì. Bọn địch đã kết án tử hình cho chị và chuyển chị ra nhà tù Côn Đảo.
Trên đường ra chiến trường, chị không hề sợ hãi, ngắt một bông hoa ven đường và tặng cho người lính hành hình chị. Trước cái chết, chị kiên quyết không quỳ xuống, từ chối bịt mắt, đối diện với cái chết của mình rất bình tĩnh. Điều ân hận nhất của chị là chưa diệt hết được bọn thức dân Pháp. Trước khi chết, Chị Sáu bắt đầu hát Tiến quân ca. Khi lính lên đạn, chị ngừng hát, hô vang những lời cuối cùng “Đả đảo bọn thực dân Pháp. Việt Nam độc lập muôn năm. Hồ Chủ tịch muôn năm!”. Chị đã ngã xuống nhưng chắc chắn tấm gương của chị vẫn còn sáng mãi.
Tiếng Việt lớp 3 trang 76 Câu 2: Trao đổi về câu chuyện (bài thơ, bài văn) em đã đọc.
Gợi ý:
– Em thích nhân vật (hoặc chi tiết, hình ảnh) nào trong câu chuyện (bài thơ, bài văn) đó? Vì sao?
– Câu chuyện (bài thơ, bài văn) đó nói lên điều gì?
Trả lời:
– Câu chuyện kể về chị Võ Thị Sáu, em thích nhất chi tiết thể hiện sự gan dạ của chị khi bị địch bắt giữ, sự kiên trung với tổ quốc và tấm lòng dũng cảm của chị thật đáng ngưỡng mộ.
– Chị Võ Thị Sáu chính là bức tượng đài tuyệt đẹp của tinh thần dũng cảm, bất khuất, sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc. Em thấy mình cần cố gắng học thật giỏi để xây dựng đất nước, để cho công lao của những con người đi trước không uổng phí.
Đọc: Ở lại với chiến khu trang 76, 77, 78
Bài đọc
Ở lại với chiến khu
Trung đoàn trưởng bước vào lán, nhìn cả đội một lượt. Cặp mắt ông ánh lên vẻ trìu mến, dịu dàng. Ông ngồi yên lặng một lúc lâu, rồi lên tiếng:
– Các em ạ, hoàn cảnh chiến khu lúc này rất gian khổ. Mai đây chắc còn gian khổ nhiều hơn. Các em sẽ khó lòng chịu nổi. Nếu em nào muốn trở về sống với gia đình thì trung đoàn cho các em về. Các em thấy thế nào?
Trước ý kiến đột ngột của chỉ huy, bọn trẻ lặng đi. Tự nhiên, ai cũng thấy cổ họng mình nghẹn lại.
Lượm bước tới gần động lửa. Giọng em rung lên:
– Em xin ở lại.
Cả đội nhao nhao:
– Chúng em xin ở lại.
Mừng nói như van lơn:
– Chúng em còn nhỏ, chưa làm được chi nhiều thì trung đoàn cho chúng em ăn ít cũng được. Đừng bắt chúng em phải về, tôi chúng em lắm…
Những lời van xin ngây thơ mà thống thiết, van xin được chiến đấu, hi sinh vì Tổ quốc của các chiến sĩ nhỏ tuổi làm trung đoàn trưởng rơi nước mắt.
Ông nói:
– Nếu các em đều xin ở lại, anh sẽ về báo cáo với Ban chỉ huy.
Bỗng một em cất tiếng hát, cả đội đồng thanh hát vang:
“Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi
Nào có mong chi đâu ngày trở về
Ra đi, ra đi, bảo tồn sông núi
Ra đi, ra đi, thà chết không lui…”
Tiếng hát bay lượn trên mặt suối, tràn qua lớp lớp cây rừng, bùng lên như ngọn lửa rực rỡ giữa đêm rừng lạnh tối, làm lòng người chỉ huy ấm hẳn lên.
Theo Phùng Quán
Đọc hiểu
Tiếng Việt lớp 3 trang 78 Câu 1: Trung đoàn trưởng nói gì với các chiến sĩ nhỏ?
Trả lời:
Trung đoàn trưởng nói với các chiến sĩ rằng con đường phía trước của chiến khu sẽ rất gian khổ, em nào muốn trở về gia đình thì trung đoàn sẽ cho các em về.
Tiếng Việt lớp 3 trang 78 Câu 2: Vì sao các chiến sĩ xúc động khi nghe trung đoàn trưởng nói?
Trả lời:
Vì lời của trung đoàn trưởng thể hiện sự thấu hiểu, bao dung cho những vất vả mà các chiến sĩ gặp phải.
Tiếng Việt lớp 3 trang 78 Câu 3: Các chiến sĩ đáp lời trung đoàn trưởng như thế nào?
Trả lời:
Lượm bước tới gần động lửa. Giọng em rung lên:
– Em xin ở lại.
Cả đội nhao nhao:
– Chúng em xin ở lại.
Mừng nói như van lơn:
– Chúng em còn nhỏ, chưa làm được chi nhiều thì trung đoàn cho chúng em ăn ít cũng được. Đừng bắt chúng em phải về, tôi chúng em lắm…
Tiếng Việt lớp 3 trang 78 Câu 4: Chi tiết nào trong bài khiến em cảm động? Vì sao?
Trả lời:
– Chi tiết khiến em cảm động là cả đội nhao lên nói “Chúng em xin ở lại.” Vì chi tiết đó thể hiện sự quyết tâm, đồng lòng và đoàn kết của toàn đội với nhiệm vụ kháng chiến bảo vệ Tổ quốc.
Luyện tập
Tiếng Việt lớp 3 trang 78 Câu 1: Tìm trong lời của nhân vật Mừng một câu khiến.
Trả lời:
Câu cầu khiến trong lời của nhân vật Mừng: “Đừng bắt chúng em phải về, tội chúng em lắm…”
Tiếng Việt lớp 3 trang 78 Câu 2: Chuyển câu “Chúng em xin ở lại” thành một câu khiến.
Trả lời:
Trung đoàn trưởng cho chúng em ở lại nhé!
Tiếng Việt lớp 3 trang 78 Câu 3: Tìm các bộ phận của câu ứng với mỗi cột trong bảng dưới đây:
Tiếng hát bùng lên như ngọn lửa rực rỡ giữa đêm rừng lạnh tối.
Sự vật 1 |
Đặc điểm |
Từ so sánh |
Sự vật 2 |
|
|
|
|
Trả lời:
Sự vật 1 |
Đặc điểm |
Từ so sánh |
Sự vật 2 |
Tiếng hát |
bùng lên |
như |
ngọn lửa rực rỡ giữa đêm rừng lạnh tối. |
Góc sáng tạo: Người chiến sĩ trang 78, 79
Tiếng Việt lớp 3 trang 78 Câu 1: Viết đoạn văn hoặc bài thơ ngắn về các chiến sĩ nhỏ trong bài đọc Ở lại với chiến khu. Trang trí cho bài viết hoặc gắn tranh vẽ của em.
Trả lời:
Đoạn trích lấy từ truyện Tuổi thơ dữ dội. Đây là câu chuyện kể về đội thiếu niên tham gia Vệ quốc quân thời kháng chiến chống Pháp (Đội Thiếu niên trinh sát Trung đoàn Trần Cao Vân, thành phố Huế). Chính nhà văn Phùng Quán, người viết truyện này là một trong những chiến sĩ Vệ quốc quân nhỏ tuổi ấy. Phùng Quán (1932 – 1995), người Huế, 13 tuổi tham gia Vệ quốc quân, làm chiến sĩ trinh sát Trung đoàn 101 (trước đó gọi là Trung đoàn Trần Cao Vân).
Đoạn truyện kể một tình tiết ở chiến khu, vào lúc quân ta ở vào tình trạng quá gian khổ, và tương lai còn có thể gian khổ hơn, trung đoàn trưởng phải tính đến việc đưa các em trở về với gia đình. Chi tiết trung đoàn trưởng bước vào lán, nhìn cả đội một lượt, rồi lại ngồi yên lặng một lúc lâu, cho thấy điều ông chuẩn bị nói là một điều hệ trọng và khó nói. Ông biết sự gan góc của các chiến sĩ nhỏ tuổi, nhưng ông cũng không nỡ để các em phải chịu đựng quá sức mình.
Về phía các em, lời nói của trung đoàn trưởng lại gây ra một sự bất ngờ quá lớn khiến các em lặng đi, cổ họng nghẹn lại. Bởi vì khi từ giã nhà lên chiến khu các em đã xác định chiến đấu vì Tổ quốc, “ra đi thà chết không lui”. Trong hoàn cảnh khó khăn này, các em một lần nữa thể hiện quyết tâm: “thà chết trên chiến khu còn hơn về ở lộn với tụi Tây” ; “chúng em ăn ít cũng được”. Đó là những câu nói rất hồn nhiên tự đáy lòng, nhưng cũng thể hiện một ý chí mãnh liệt, khiến trung đoàn trưởng cảm động trào nước mắt.
Trước những tấm lòng trong sáng vì Tổ quốc như thế, trung đoàn trưởng khó có thể từ chối, nhưng cũng không dám nhận lời ngay mà hứa sẽ báo cáo với trung đoàn (nghĩa là vẫn phải cân nhắc thêm).
Như để củng cố thêm những lời vừa nói, các em đồng thanh hát bài Đoàn Vệ quốc quân, tiếng hát ấy “bùng lên như ngọn lửa rực rỡ giữa đêm rừng lạnh tối”. Tình yêu Tổ quốc mãnh liệt là sức mạnh phi thường khiến cho các chiến sĩ nhỏ tuổi có thể vượt qua tất cả gian lao của đời chiến sĩ.
Tiếng Việt lớp 3 trang 78 Câu 2: Viết đoạn văn hoăc bài thơ ngắn về một chiến sĩ quân đội. Gắn ảnh em sưu tầm hoặc tranh vẽ của em.
Trả lời:
Tự đánh giá trang 79
Tiếng Việt lớp 3 trang 79 Câu hỏi: Sau bài 16, em đã biết thêm những gì, đã làm thêm được những gì? Hãy hoàn chỉnh bảng dưới đây và tự đánh giá theo gợi ý:
Trả lời:
Em đánh dấu những điều đã biết và đã làm được.
Xem thêm các bài giải SGK Tiếng Việt lớp 3 Cánh diều hay, chi tiết khác:
Bài 15: Ôn tập giữa học kì 2
Bài 16: Bảo vệ Tổ quốc
Bài 17: Trái Đất của em
Bài 18: Bạn bè bốn phương
Bài 19: Ôn tập cuối năm