Hội lồng tồng – Ngữ văn lớp 7
1. Tác phẩm Hội lồng tồng
Vùng Việt Bắc mở hội lồng tồng từ sau tết Nguyên đán đến tết Thanh minh. Lồng tồng tiếng Tày – Nùng có nghĩa là “xuống đồng”. Thần thành hoàng của đồng bào Tày – Nùng cũng tức là thần nông. Đinh thành hoàng thở những nhân vật ngày xưa đã có công khai phá ruộng nương, xây dựng và bảo vệ bản mường. Có nhiều truyền thuyết khác nhau về hội lồng tồng ở từng địa phương
[…] Trong những ngày hội lồng tồng cầu mùa, vui xuân, dân làng mang cỗ đến cúng thần nông. Hội lồng tồng cũng là dịp trưng bày những sản phẩm nông nghiệp của dân làng như gà thiến béo, lợn quay, các thứ bánh trái,… Sản phẩm được trình bày sao cho thật đẹp mắt. Sau khi cúng tế, người ta ăn cỗ với thịt gà, thịt lợn, bánh chưng hay bánh lá ngải, xôi nhuộm lá cẩm, uống rượu nếp, rượu mác mật,… Trong những trò chơi dân gian làm cho hội lồng tổng rộn rịp có đánh vật, kéo co, thi bắn, đua thuyền, biểu diễn võ dân tộc,… nhưng hấp dẫn nhất là tung còn, múa sư tử và “lượn lồng tồng”.
Trò chơi ném còn có dụng cụ chính là một chiếc còn. Đó là một túi vải màu hình vuông, mỗi cạnh khoảng 10 cm, trong đổ cát, đuôi dài hơn 1m bằng vải ngũ sắc. Giữa đồng người ta dựng một cây mai cao vút, đóng giả như kiểu cột cờ để có thể dụng lên hạ xuống được. Trên đỉnh chót người ta uốn ngọn cây mai thành một vòng tròn, dán giấy trắng, trong có điểm hồng tâm. Thanh niên gái trai chia làm hai bên thi nhau nhằm chiếc vòng giấy ấy mà tung còn. Người nào nhanh tay bắt được còn của đối phương tung đến mới được ném. Người ném trúng thủng vòng giấy thì được thưởng, nếu ném thủng hồng tâm thi được giải thưởng to hơn. Ném trúng rồi, người ta hạ cột vả lại vòng giấy và cuộc vui tiếp tục.
Múa sư tử được đồng bào Tày – Nùng, nhất là thanh niên ưa thích vì nó phù hợp với tinh thần thượng võ vốn có của họ. Múa sư tử là dịp rèn luyện thân thể, giúp cho thanh niên có được một vài môn võ nghệ để tự vệ, chống giặc cướp, giặc ngoại xâm khi cần
Múa sư tử thực chất là một điệu múa võ. Các miếng võ được biểu diễn rõ nhất trong màn múa sư tử đua nghịch vờn nhau với đười ươi và hai khi. Đười ươi và khi tìm đủ mọi cách để trêu chọc sư tử. Con thủ dữ lúc phát khùng lên nhe răng ra định ngoạm đầu đười ươi và khi, nhưng lũ này dùng đủ miếng võ để né tránh một cách tài tình.
Trong hội lồng tồng, theo tục lệ, con sư tử nào đến trước giữ vai trò đàn anh, có quyền chủ trì các buổi biểu diễn, con đến sau phải đeo vào cằm con đến trước một miếng vải đỏ gọi là “quả hồng” để thừa nhận quyền đản anh. Trường hợp tranh chấp người ta tổ chức một cuộc đấu miếng giữa hai con sư tử. Con nào quật ngã đối phương sẽ được nhận vai trò đàn anh, trường hợp này mỗi bên đều chọn một tay quyền thuật giỏi, một thầy dạy võ, để múa sư tử đọ tài với đối phương.
Nhân dịp hội lồng tổng, thanh niên gái trai tụ họp thành những đám hát lượn, hát đối đáp những bài “lượn lồng tồng” để cầu mùa mảng, chúc mừng dân làng được mọi sự may mắn tốt lành, ca ngợi cái đẹp của thiên nhiên, của mùa xuân, của tình yêu, của cuộc sống lao động
Mở đầu cho buổi hát lượn là những lời đón chào xuân:
Mở bài khai khẩu ước chào xuân
Nghe tiếng nhà người đầy ái ân
Nghe tiếng nhà người đầy xuân sắc
Sĩ tử xin chào kết cổ nhân!
Để cầu mùa và chúc mừng nhau, gái trai hát:
Năm mới tới mùa màng sung túc
Không một người khổ cực gian nan
Trai gái được an nhàn thanh thỏa
Chăm lo việc cấy lứa chăm tằm…
Buổi hát lượn trong hội lồng tổng thưởng có hai phần. Phần “lượn tuồng” gồm những bài hát cổ điển mà gái trai phải học thuộc lòng để hát kể cho nhau nghe về những cảnh đẹp của quê hương mường bản, những câu chuyện mượn trong cổ tích, truyền thuyết, những cảnh sinh hoạt sản xuất trong bốn mùa, mười hai tháng, Những bài hát đỏ giúp họ khoi gọi và gửi gắm tình yêu […]
Sau phần “lượn tuồng” là phần “lượn suong” “Lượn sương” thường sáng tác tại chỗ theo cảm hứng để gái trai đặt vấn đề yêu đương và trực tiếp thổ lộ tình cảm với nhau:
Thương hoa sói nhớ hoa nhài
Hoa sói người duyên lắm sắc tài
Ước sao ngắt vài bông về cắm vườn cảnh nhà ta
Để đi sớm về trưa ngắm bóng ai…
Mùa xuân là mùa của tuổi trẻ, của tình yêu, của ca hát. Gái trai trẩy hội lồng tồng, hát lượn lồng tổng nhiệt tình ca ngợi mùa xuân, thiết tha yêu mến mùa xuân, luyến tiếc xuân, sợ mùa xuân và tuổi trẻ qua nhanh. […]
Ở nhiều địa phương cuộc hát lượn lồng tồng giữa gái trai có thể kéo dài đến bốn năm đêm liền mà vốn thơ ca và tình cảm vẫn chưa cạn Lượn, tiếng nói của tình yêu, tiếng lỏng của ngày hội xuân, lành mạnh, trong sáng, đầy sức sống, vang vọng sôi nổi mà êm đềm dưới trời xuân Việt Bắc.
2. Tìm hiểu chung
a. Xuất xứ
– Theo Trần Quốc Vượng – Lê Văn Hảo – Dương Tất Từ, Mùa xuân và phong tục Việt Nam
b. Bố cục Hội lồng tồng
Văn bản Hội lồng tồng được chia thành 4 phần
– Phần 1 (từ đầu đến “múa sư tử và lượn lồng tồng”): Giới thiệu hội lồng tồng ở vùng Việt Bắc
– Phần 2 (tiếp đến “cuộc vui tiếp tục”): Giới thiệu về trò chơi ném còn
– Phần 3 (tiếp đến “đọ tài đối phương”): Giới thiệu về trò múa sư tử
– Phần 4 (còn lại): Giới thiệu về hoạt động hát lượn
c. Thể loại
Văn bản Hội lồng tồng thuộc thể loại văn bản thông tin
d. Phương thức biểu đạt
Phương thức biểu đạt của văn bản Hội lồng tồng là thuyết minh
3. Giá trị nội dung, nghệ thuật
a. Giá trị nội dung của văn bản Hội lồng tồng
Văn bản tái hiện lại hình ảnh của lễ hội Lồng tồng, qua đó thể hiện tình yêu của tác giả với những nét đẹp đậm đà bản sắc dân tộc.
b. Giá trị nghệ thuật của văn bản Hội lồng tồng
– Cách triển khai lập luận, lí lẽ, bằng chứng rõ ràng, sắp xếp trật tự hợp lí
– Lối viết hấp dẫn, thú vị
Xem thêm các bài tóm tắt tác giả, tác phẩm Ngữ văn lớp 7 Kết nối tri thức hay, chi tiết khác:
Tác giả – tác phẩm: Chuyện cơm hến
Tác giả – tác phẩm: Hội Lồng Tồng
Tác giả – tác phẩm: Những khuôn cửa dấu yêu
Tác giả – tác phẩm: Đẽo cày giữa đường
Tác giả – tác phẩm: Ếch ngồi đáy giếng