Soạn bài Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ
Câu 1 trang 23 Ngữ văn 12 Tập 1: Đọc văn bản và đưa ra lí giải phù hợp theo tri thức về kiểu bài.
Lời giải:
Mở bài |
Giới thiệu khái quát về hai tác phẩm, nêu vấn đề cần so sánh, đánh giá |
Thân bài |
– Chỉ ra điểm tương đồng – Chỉ ra điểm khác biệt giữa hai tác phẩm: + Chủ thể trữ tình + Cách sử dụng nhãn tự + Phong cách sáng tác của mỗi tác phẩm |
Kết bài |
Khẳng định lại những giá trị chung và nét độc đáo ở mỗi tác phẩm. Đưa ra cảm nghĩ về phong cách sáng tác của mỗi tác giả |
Câu 2 trang 23 Ngữ văn 12 Tập 1: Nhận xét về cách sắp xếp các luận điểm ở phần thân bài.
Lời giải:
So sánh từng điểm khác biệt:
– Chủ thể trữ tình
– Cách sử dụng nhãn tự
– Phong cách sáng tác của mỗi tác phẩm
→ Sắp xếp luận điểm, lí lẽ, bằng chứng theo trình tự lần lượt, hợp lí
→ Khi so sánh, người viết không chỉ nêu mà còn phân tích thông qua việc trích dẫn ngữ liệu văn bản và nhận xét.
Câu 3 trang 23 Ngữ văn 12 Tập 1: Trong từng luận điểm, sự kết hợp giữa lí lẽ và bằng chứng được thể hiện như thế nào?
Lời giải:
Luận điểm được đưa ra hợp lý kết hợp với lí lẽ và bằng chứng
VD: Khi so sánh điểm khác biệt về nhãn tự bài thơ:
Giang tuyết – Liễu Tông Nguyên |
Mộ – Hồ Chí Minh |
|
Nhãn tự |
“Hàn” (lạnh) |
“Hồng” (đỏ) |
Lí lẽ, bằng chứng |
– Toát ra từ sông tuyết – Sự lẻ loi nơi hình ảnh chiếc thuyền “cô chu” và cả cái lẻ loi nơi ông câu “độc điếu” → Lạnh ngoại cảnh + tâm hồn chủ thể trữ tình |
– “Lô dĩ hồng”: lò than đỏ rực – Cái nhìn, hơi ấm từ tâm hồn của chủ thể trữ tình |
Câu 4 trang 23 Ngữ văn 12 Tập 1: Từ ngữ liệu trên, bạn rút ra được những lưu ý gì khi viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ?
Lời giải:
– Chỉ ra một số điểm tương đồng, khác biệt giữa hai tác phẩm theo yêu cầu của đề bài.
– Sử dụng lí lẽ và bằng chứng thuyết phục
– Sắp xếp luận điểm, lí lẽ và bằng chứng theo trình tự hợp lí, diễn đạt rõ ràng, mạch lạc
Thực hành viết theo quy trình
Đề bài trang 23 Ngữ văn 12 Tập 1: Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ cùng phong cách hoặc khác phong cách sáng tác mà bạn yêu thích
Lời giải:
Tình yêu là đề tài muôn thuở của văn chương. Tình yêu là một loại tình cảm đặc biệt trong tâm hồn mỗi người. Sự sống của tình yêu là nỗi nhớ. Nỗi nhớ trong tình yêu cũng đa sắc thái và nhiều cung bậc. Những sắc thái và cung bậc ấy được thể hiện rất đẹp qua hai trích đoạn trong Tương tư của Nguyễn Bính và Việt Bắc của Tố Hữu. Nguyễn Bính thì bày tỏ nỗi nhớ nhung trong tình yêu đôi lứa, Tố Hữu thì bày tỏ nỗi niềm da diết khôn nguôi với quê hương cách mạng biết bao nghĩa tình.
Cũng như các nhà thơ lãng mạn cùng thời, Nguyễn Bính say mê với đề tài tình yêu, nhưng tình yêu trong thơ Nguyễn Bính có một lối nói riêng. “Cái tôi” trong thơ Nguyễn Bính không nổi lên mà tan hòa vào không gian đồng quê bằng biện pháp ẩn dụ nhân hoá như trong ca dao:
|
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông Một người chín nhớ mười mong một người Gió mưa là bệnh của giời, Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng” |
Tâm trạng tương tư của chàng trai quê được bộc lộ trong bài thơ “Tương tư” thành những nhớ mong da diết, trĩu nặng. Nỗi niềm ấy được xem như một quy luật tự nhiên không thể cưỡng lại, một thứ “tâm bệnh” khó chữa của người đang yêu. Niềm mong nhớ gắn liền với khung cảnh làng quê khiến cho cả không gian như cũng nhuốm đầy nỗi tương tư.
Từ nỗi nhớ người yêu luôn thường trực, cháy bỏng trong lòng, cái tôi trữ tình suy ngẫm, liên tưởng, nhận diện nỗi nhớ. Người ta thường nói nỗi nhớ là sự sống của tình yêu, còn Nguyễn Bính thì quy kết thành bệnh. Cái bệnh kinh niên sinh ra từ tâm lí của con người, không ai nói mình yêu mà không nhớ, nhớ mà không yêu. Yêu là nhớ, đó là quy luật. Quy luật của lòng người cũng như quy luật của tự nhiên: “Gió mưa là bệnh của giời/ Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”. Trời đất không thể không có gió mưa, sống không thể “không nhớ, không thương một kẻ nào”. Một sự thừa nhận thành thật, ý vị khẳng định tính tất yếu của thiên nhiên cũng như của tình yêu – lòng người.
Về nghệ thuật, nhà thơ sử dụng các hình ảnh sóng đôi: Đông – Đoài, gió – mưa, tôi – nàng… tô đậm khát vọng lứa đôi. Thể thơ lục bát cùng với các hình thức diễn đạt, cách dùng địa danh quen thuộc của ca dao dân ca khiến đoạn thơ có vẻ đẹp dung dị, duyên dáng dễ đi vào lòng người. Chất chân quê của hồn thơ Nguyễn Bính được biểu hiện rất tài tình, khiến đọc lên người ta cứ ngỡ ca dao chứ không phải thơ hiện đại, và mỗi người đều mượn nó để nói hộ lòng mình. Đó chẳng phải là những câu thơ bất hủ đó sao!
Thể thơ lục bát thấm đượm phong vị ca dao. Chất liệu ngôn từ trong bài “Tương tư” rất chân quê với những địa danh, thành ngữ gần gũi, cách tổ chức lời thơ độc đáo, sử dụng nhuần nhuyễn nhiều biện pháp tu từ: hoán dụ, nhân hoá, đối sánh, tăng tiến, khoa trương.
Như trên đã nói, tình yêu trong mỗi con người là một xúc cảm tuyệt vời, nỗi nhớ trong tình yêu cũng đa sắc thái, nhiều cung bậc. Nếu Nguyễn Bính giãi bày nỗi nhớ trong tình yêu đôi lứa thì Tố Hữu trong đoạn thơ này lại diễn tả niềm da diết khôn nguôi với Việt Bắc – quê hương cách mạng biết bao nghĩa tình:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đỉnh núi nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”
Suốt mười lăm năm “Từ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh” cho đến lúc cuộc kháng Pháp vĩ đại thắng lợi, cán bộ, chiến sĩ cách mạng đã gắn bó cùng đồng bào Việt Bắc đánh giặc “Bát cơm chấm muối, mối thù nặng vai… Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng’’, nay chiến thắng trở về xuôi làm sao có thể quên những kỉ niệm sâu nặng như thế!
Tố Hữu đã diễn tả nỗi niềm thương nhớ day dứt, khôn nguôi của người đi kẻ ở cũng thường trực, da diết như trong nỗi nhớ của tình yêu đôi lứa vậy. Nhưng nỗi nhớ không dành riêng cho một đối tượng mà nỗi nhớ dành cho tất cả đồng bào và thiên nhiên Việt Bắc. Nỗi nhớ giăng mắc khắp không gian, lung linh bao kỉ niệm: Nhớ những đêm trăng treo trên đầu núi, những buổi chiều nắng toả vàng rộng khắp trên nương, những bản làng ảo mờ trong sương khói, đặc biệt là bóng dáng của “người thương đi về”quây quần bên bếp lửa mỗi đêm đông, cảnh – người quyện hoà thanh bình, yên ả, ấm áp.
“Việt Bắc” của Tố Hữu đã thể hiện nỗi nhớ đằm thắm, sâu nặng của người cán bộ kháng chiến dành cho Việt Bắc, trong đó chan hòa tình nghĩa riêng chung. Hiện lên trong nỗi nhớ ấy là hình ảnh chiến khu Việt Bắc thân thương, với cảnh vật bình dị mà thơ mộng, với nhịp sống đơn sơ mà êm đềm, đầm ấm. Thể thơ lục bát kết hợp nhuần nhuyễn chất cổ điển và chất dân gian, nhịp điệu linh hoạt uyển chuyển, âm hưởng tha thiết, ngọt ngào. Hình ảnh thơ giản dị mà gợi cảm, cách ví von quen thuộc mà vẫn độc đáo, cách tổ chức lời thơ với phép tiểu đối, phép điệp cân xứng, khéo léo đã khiến cho độc giả vô cùng ấn tượng bởi những giá trị mà bài thơ mang lại.
Tuy ra đời ở hai thời điểm khác nhau nhưng hai bài thơ đều đều thể hiện nỗi nhớ da diết, sâu nặng, sử dụng thể thơ lục bát điêu luyện.
Song, bên cạnh đó, dù viết cùng về một đề tài nhưng giữa hai bài thơ vẫn có những điểm khác biệt. Bài thơ “Tương tư” là nỗi nhớ của tình yêu lứa đôi, gắn với không gian làng quê Bắc Bộ, vừa bày tỏ vừa “lí sự” về tương tư, với cách đối sánh táo bạo còn nỗi nhớ được thể hiện trong bài “Việt Bắc” là nỗi nhớ của tình cảm cách mạng, gắn với không gian núi rừng Việt Bắc, nghiêng hẳn về bộc bạch tâm tình, với cách ví von duyên dáng.
Thơ là tiếng tơ lòng, mỗi khi rung động trước thiên nhiên, đất nước, con người, tiếng tơ ấy lại cất lên tiếng hát của tâm hồn làm xúc động biết bao người đọc. Cảm ơn các nhà thơ đã cho ta biết yêu, biết rung động trước cái đẹp của cuộc đời qua những trang thơ.
Xem thêm các bài soạn văn lớp 12 Chân trời sáng tạo hay, chi tiết khác:
Tiếng thu (Lưu Trọng Lư).
Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ
So sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ
Ôn tập trang 28
Lão Hạc (Nam Cao).
Hai đứa trẻ (Thạch Lam)