Giải bài tập Lịch Sử lớp 11 Bài 11: Tình hình các nước tư bản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939)
Trả lời câu hỏi giữa bài
Trả lời câu hỏi thảo luận trang 60 SGK Lịch sử 11: Dựa vào lược đồ trang 60, hãy so sánh sự thay đổi lãnh thổ các nước Châu Âu năm 1923 với năm 1914.
Trả lời:
Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, bản đồ chính trị châu Âu có nhiều biến đổi so với năm 1914:
– Đức mất toàn bộ thuộc địa của mình. Đức còn phải trả lại cho Bỉ, Đan Mạch và Ba Lan một số vùng đất đai mà trước đây Đức chiếm và sáp nhập vào lãnh thổ của mình. Diện tích nước Đức so với trước chiến tranh giảm đi 1/3. Nước Ba Lan sau chiến tranh đã có một lối hẹp thông ra biển Ban Tích.
– Tại miền Trung Âu, đế quốc Áo – Hung tan rã và các quốc gia mới đã ra đời là Tiệp Khắc, Áo, Hungari. Lãnh thổ của Ru-ma-ni được mở rộng hơn.
– Trên miền Tây bán đảo Bancăng, nước Nam Tư cũng đã xuất hiện trên cơ sở sự thống nhất lãnh thổ giữa Xecbi và một số vùng đất đai của người Slavơ tại miền Nam đế quốc Áo – Hung trước đây.
– Đế quốc Nga không còn mà thay vào đó là các nước như: Lít-va, Lat-vi-a, E-xtô-ni-a, Phần Lan và Liên Xô.
Trả lời câu hỏi thảo luận số 1 trang 61 SGK Lịch sử 11: Nêu những nét nổi bật của cao trào cách mạng 1918 – 1923 ở các nước tư bản châu Âu.
Trả lời:
Những nét nổi bật của cao trào cách mạng 1918 – 1923 ở các nước tư bản châu Âu:
– Trong những năm 1918 – 1923, một cao trào cách mạng bùng nổ ở hầu khắp các nước châu Âu.
+ Đỉnh cao của phong trào là sự thành lập các nước Cộng hoà Xô viết ở Hung-ga-ri (3-1919), ở Ba-vi-e (Đức 4-1919).
+ Nhiều Đảng Cộng sản được thành lập ở nhiều nước như: Đức, Áo, Hung-ga-ri, Ba Lan, Phần Lan, Ác-hen-ti-na,…
– Sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới đòi hỏi phải có một tổ chức quốc tế để tập hợp lực lượng và chỉ đạo cách mạng. Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập (Quốc tế thứ ba)
Trả lời câu hỏi thảo luận số 2 trang 61 SGK Lịch sử 11: Qua các nội dung hoạt động của Đại hội II và Đại hội VII, hãy nhận xét về vai trò của Quốc tế Cộng sản đối với phong trào cách mạng thế giới.
Trả lời:
Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản (còn gọi là Quốc tế thứ ba) được thành lập.
* Nội dung hoạt động:
– Trong thời gian tồn tại, từ năm 1919 đến năm 1943, Quốc tế cộng sản đã tiến hành 7 đại hội.
– Tại đại hội lần II (1920), Quốc tế Cộng sản đã thông qua “Luận cương về vai trò của Đảng Cộng sản” và “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” do Lê-nin khởi thảo.
– Tại đại hội VII (1935) Quốc tế Cộng sản đã chỉ rõ nguy cơ của chủ nghĩa phát xít và kêu gọi các Đảng Cộng sản tích cực đấu tranh thành lập các Mặt trận thống nhất công nhân nhằm mục tiêu chống phát xít, chống chiến tranh.
– Năm 1943, do tình hình thế giới thay đổi, Quốc tế Cộng sản tuyên bố tự giải tán.
* Nhận xét vai trò của Quốc tế Cộng sản:
– Đề ra đường lối cách mạng phù hợp với từng thời kì phát triển của cách mạng thế giới.
– Là một tổ chức cách mạng của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
– Quốc tế Cộng sản đã có công lao to lớn trong việc thống nhất và phát triển phong trào cách mạng thế giới.
Trả lời câu hỏi thảo luận số 1 trang 62 SGK Lịch sử 11: Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933 đã gây ra những hậu quả gì?
Trả lời:
Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933:
– Về kinh tế:
+ Tàn phá nặng nề nền kinh tế các nước tư bản.
+ Hàng chục triệu công nhân thất nghiệp, nông dân mất ruộng đất, sống trong cảnh nghèo đói, túng quẫn.
– Về chính trị – xã hội: gây nên những bất ổn về chính trị, xã hội. Những cuộc đấu tranh, biểu tình, tuần hành của những người thất nghiệp diễn ra khắp các nước, lôi kéo hàng triệu người tham gia.
– Về quan hệ quốc tế:
+ Hình thành hai khối đế quốc đối lập: một bên là Mĩ, Anh, Pháp với một bên là Đức, I-ta-li-a, Nhật Bản.
+ Diễn ra cuộc chạy đua vũ trang ráo riết, báo hiệu nguy cơ của một cuộc chiến tranh thế giới mới.
Trả lời câu hỏi thảo luận số 2 trang 62 SGK Lịch sử 11: Tại sao cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933 dẫn tới nguy cơ một cuộc chiến tranh thế giới mới?
Trả lời:
Khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933 dẫn tới nguy cơ một cuộc chiến tranh thế giới mới, vì:
– Cuộc khủng hoảng đã đe dọa nghiêm trọng sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Để cứu vãn tình thế, các nước tư bản buộc phải xem xét lại con đường phát triển của mình.
+ Các nước Mĩ, Anh, Pháp tiến hành những cải cách kinh tế – xã hội để khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng và đổi mới quá trình quản lí, tổ chức sản xuất.
+ Các nước Đức, I-ta-li-a, Nhật Bản là những nước không hoặc có ít thuộc địa, thiếu thốn về vốn, nguyên liệu, thị trường đã đi theo con đường phát xít hóa chế độ chính trị.
– Quan hệ giữa các cường quốc tư bản chuyển biến ngày càng phức tạp. Hình thành hai khối đế quốc đối lập: một bên là Mĩ, Anh, Pháp với một bên là Đức, I-ta-li-a, Nhật Bản và cuộc chạy đua vũ trang ráo riết đã báo hiệu nguy cơ của một cuộc chiến tranh thế giới mới.
Trả lời câu hỏi thảo luận trang 63 SGK Lịch sử 11: Mặt trận Nhân dân Pháp đã giành được thắng lợi như thế nào?
Trả lời:
– Trước sự lớn mạnh của chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh thế giới, dưới sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản (đại hội VII) và các Đảng cộng sản, phong trào đấu tranh chống phát xít, chống chiến tranh lan rộng ỏ nhiều nước.
– Các Mặt trận nhân dân chống chủ nghĩa phát xít được thành lập ở nhiều nước tư bản như Pháp, I-ta-li-a, Tiệp Khắc, Hi Lạp, Tây Ban Nha,…
– Tháng 5-1936, Mặt trận nhân dân Pháp giành thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử và thành lập chính phủ do Lê-ông Bơ-lum đứng đầu đã bảo vệ được nền dân chủ, Pháp thoát khỏi những hiểm họa của chủ nghĩa phát xít.
Câu hỏi và bài tập (trang 63 sgk Lịch Sử 11)
Bài 1 trang 63 SGK Lịch sử 11: Trình bày các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918 – 1939).
Trả lời:
Chủ nghĩa tư bản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918 – 1939) trải qua 3 giai đoạn phát triển:
* Giai đoạn 1918 – 1923:
– Trât tự thế giới mới được thiết lập. Các nước tư bản tiến hành khôi phục kinh tế sau chiến tranh.
– Diễn ra cao trào cách mạng 1918 – 1923 ở các nước tư bản. Nền thống trị của giai cấp tư sản cầm quyền không ổn định với sự ra đời của các Đảng cộng sản và hoạt động mạnh mẽ của Quốc tế Cộng sản.
* Giai đoạn 1924 – 1929:
– Cách mạng bước vào thời kì thoái trào.
– Nền công nghiệp của các nước tư bản phát triển nhanh chóng, nhất là Mĩ.
* Giai đoạn 1929 – 1939:
– Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933 dẫn đến chủ nghĩa phát xít cầm quyền ở nhiều nước.
– Các nước đế quốc phân chia thành hai khối độc lập (khối phát xít Đức, Italia, Nhật Bản và khối Anh, Pháp, Mĩ) dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ hai năm 1939.
Bài 2 trang 63 SGK Lịch sử 11: Nêu những hậu quả về chính trị, xã hội của cuộc khủng hoảng kinh tế (1929 – 1933) đối với các nước tư bản.
Trả lời:
Hậu quả về chính trị, xã hội của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933:
– Gây nên những bất ổn về chính trị, xã hội.
– Những cuộc đấu tranh, biểu tình, tuần hành của những người thất nghiệp diễn ra khắp các nước.
– Đe dọa nghiêm trọng đến sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản.
– Dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa phát xít, đe dọa nghiêm trọng hòa bình, an ninh thế giới.
Bài 3 trang 63 SGK Lịch sử 11: Phong trào Mặt trận Nhân dân chống phát xít và nguy cơ chiến tranh diễn ra như thế nào?
Trả lời:
– Phong trào Mặt trận nhân dân chống phát xít và nguy cơ chiến tranh diễn ra mạnh mẽ.
– Diễn biến:
+ Trước thảm họa của chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh thế giới, dưới sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản (đại hội VII),phong trào đấu tranh thành lập Mặt trận nhân dân chống phát xít và chiến tranh đã lan rộng ở nhiều nước tư bản như Pháp, Italia, Tiệp Khắc, Hi Lạp, Tây Ban Nha…
+ 5/1936, Mặt trận nhân dân Pháp giành thắng lợi trong tổng tuyển cử, bảo vệ được nền dân chủ, Pháp thoát khỏi những hiểm họa của chủ nghĩa phát xít.
+ 2/1936, ở Tây Ban Nha, Mặt trận nhân dân giành thắng lợi trong tổng tuyển cử nhưng các thế lực phát xít do Phrancô cầm đầu đã gây nội chiến, thủ tiêu nền cộng hòa.
– Kết quả: Phong trào giành được thắng lợi điển hình ở Pháp, nhưng ở nhiều nơi đã thất bại như Tây Ban Nha.
Lý thuyết Bài 11: Tình hình các nước tư bản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939)
1. Thiết lâp trật tự thế giới mới theo hệ thống Vécsai – Oasinhtơn
– Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, các nước tư bản đã tổ chức Hội nghị hòa bình ở Vec-xai (1919- 1920) và Oa-sinh-tơn (1921 – 1922) để kí kết các hòa ước phân chia quyền lợi. Một trật tự thế giới được thiết lập mang tên hệ thống hòa ước Vecxai – Oasinhtơn.
– Hệ thống Vexai – Oasinhtơn:
+ Mang tính chất đế quốc chủ nghĩa, nó mang lại quyền lợi nhiều nhất cho các nước thắng trận: Anh, Pháp, Mĩ xác lập sự nô dịch, áp đặt với các nước bại trận, đặc biệt là các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc.
+ Các nước tư bản thắng trận cũng nảy sinh những mâu thuẫn về quyền lợi.
=> Quan hệ hòa bình giữa các nước tư bản trong thời gian này chỉ là tạm thời và mỏng manh.
– Để duy trì trật tự thế giới mới, Hội Quốc Liên được thành lập với sự tham gia của 44 nước thành viên.
2. Cao trào cách mạng 1918-1923 ở các nước tư bản. Quốc tế Cộng sản (Giảm tải, không học)
a) Cao trào cách mạng 1918 – 1923 ở các nước tư bản
– Bối cảnh:
+ Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, hầu hết các nước tư bản (trừ Mĩ) bị thiệt hại nặng nề.
+ Thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga đã tác động sâu sắc tới phong trào cách mạng thế giới.
=> Trong những năm 1918 – 1923, một cao trào cách mạng đã bùng lên mạnh mẽ ở châu Âu.
– Sự phát triển của phong trào cách mạng ở châu Âu:
+ Phong trào đấu tranh của nhân dân lao động diễn ra ở hầu khắp các nước châu Âu, đỉnh cao là sự thành lập Cộng hoà Xô viết Hung-ga-ri (3-1919), ở Ba-vi-e (Đức 4-1919).
+ Nhiều Đảng Cộng sản ra đời ở các nước (Đức, Áo, Hunggari, Ba Lan, Phần Lan, Ác hen ti na).
b) Quốc tế Cộng sản
– Nguyên nhân, điều kiện thành lập:
+ Sự suy yếu của các nước tư bản (trừ Mĩ)
+ Sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới.
+ Thắng lợi của cách mạng tháng Mười và sự tồn tại của nhà nước Xô viết.
+ Nỗ lực của Lênin và một số nhà hoạt động cách mạng quốc tế.
=> Tháng 3/1919 Quốc tế Cộng sản được thành lập.
– Hoạt động:
+ Từ 1919 – 1943, Quốc tế Cộng sản tiến hành 7 lần đại hội, vạch ra đường lối cách mạng phù hợp với từng thời kỳ phát triển của cách mạng thế giới.
+ Tại đại hội lần II (1920), Quốc tế Cộng sản đã thông qua “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” do Lê-nin khởi thảo => định hướng con đường cách mạng ở nhiều nước.
+ Tại đại hội VII (1935) Quốc tế Cộng sản đã chỉ rõ nguy cơ của chủ nghĩa phát xít và kêu gọi các Đảng Cộng sản tích cực đấu tranh thành lập các Mặt trận nhân dân thống nhất nhằm mục tiêu chống phát xít, chống chiến tranh.
+ Năm 1943 tự giải tán, do tình hình thế giới thay đổi.
Đại hội VII của Quốc tế cộng sản
– Vai trò của Quốc tế Cộng sản: có công lao to lớn trong việc thống nhất và phát triển phong trào cách mạng thế giới.
3. Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 và hậu quả của nó
a, Nguyên nhân
– Trong những năm 1924 – 1929 các nước tư bản ổn định về chính trị và tăng trưởng nhanh về kinh tế, nhưng do sản xuất ồ ạt, chạy đua theo lợi nhuận dẫn đến tình trạng hàng hóa ế thừa, cung vượt quá xa cầu.
– Tháng 10/1929, cuộc khủng hoảng bùng nổ ở Mĩ sau đó lan ra các nước tư bản chủ nghĩa và kéo dài đến năm 1933
b, Diễn biến
– Về kinh tế: Tàn phá nặng nề nền kinh tế các nước tư bản, đẩy hàng trăm triệu người (công nhân, nông dân và gia đình họ) vào tình trạng đói khổ.
– Về chính trị – xã hội: bất ổn định. Những cuộc đấu tranh, biểu tình, tuần hành của những người thất nghiệp diễn ra liên tục khắp cả nước, lôi kéo hàng triệu người tham gia.
– Để đối phó lại cuộc khủng hoảng kinh tế và đàn áp phong trào cách mạng, giai cấp tư sản cầm quyền ở các nước tư bản đã lựa chọn 2 lối thoát.
+ Con đường thứ nhất: các nước Đức, Italia, Nhật Bản… không có hoặc có ít thuộc địa, thiếu vốn nguyên liệu và thị trường nên đi theo con đường chủ nghĩa phát xít để đàn áp phong trào cách mạng và tiến hành chiến tranh phân chia lại thế giới.
+ Con đường thứ hai: Các nước Mĩ, Anh, Pháp…vì có thuộc địa, có vốn và thị trường có thể thoát ra khỏi khủng hoảng bằng chính sách cải cách kinh tế – xã hội một cách ôn hòa. Cho nên chủ trương tiếp tục duy trì nền dân chủ đại nghị, duy trì nguyên trạng hệ thống Vec-xai – Oa-sinh -tơn.
=> Quan hệ giữa các cường quốc tư bản ngày càng phức tạp và dần hình thành 2 khối đế quốc đối lập. Một bên là Mĩ, Anh, Pháp >< một bên là Đức, Italia, Nhật Bản. Cuộc chạy đua vũ trang ráo riết giữa 2 khối đế quốc này đã báo hiệu nguy cơ của một cuộc chiến tranh thế giới mới.
Chế độ độc tài phát xít là nền chuyên chính khủng bố công khai của những thế lực phản động nhất, hiếu chiến nhất.
4. Phong trào Mặt trận Nhân dân chống phát xít và nguy cơ chiến tranh (Giảm tải, không học)
a) Nguyên nhân, điều kiện hình thành:
– Chủ nghĩa phát xít xuất hiện, nguy cơ chiến tranh thế giới đang đến gần.
– Nghị quyết của Đại hội VII Quốc tế đã chỉ rõ nguy cơ của chủ nghĩa phát xít; kêu gọi các Đảng Cộng sản tích cực đấu tranh thành lập các Mặt trận nhân dân thống nhất nhằm mục tiêu chống phát xít, chống chiến tranh.
=> Phong trào đấu tranh thành lập Mặt trận nhân dân chống phát xít và chiến tranh đã lan rộng ở nhiều nước tư bản như Pháp, Italia, Tiệp Khắc, Hi Lạp, Tây Ban Nha…
b) Kết quả:
– Phong trào giành được thắng lợi điển hình ở Pháp, nhưng ở nhiều nơi đã thất bại như Tây Ban Nha.
+ 5/1936, Mặt trận nhân dân Pháp giành thắng lợi trong tổng tuyển cử, bảo vệ được nền dân chủ, Pháp thoát khỏi những hiểm họa của chủ nghĩa phát xít.
Mặt trận nhân dân Pháp giành thắng lợi trong cuộc tuyển cử năm 1936
+ 2/1936, ở Tây Ban Nha, Mặt trận nhân dân giành thắng lợi trong tổng tuyển cử nhưng các thế lực phát xít do Phrancô cầm đầu đã gây nội chiến, thủ tiêu nền cộng hòa.