Tiếng Việt lớp 4 Tập 2 Bài 14: Bài ca giữ nước
Chia sẻ và đọc: Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán trang 48, 49, 50
* Nội dung Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán: Bài đọc ca ngợi sự lãnh đạo tài tình của Ngô Quyền trong chiến thắng Bạch Đằng – một trong những dấu mốc lịch sử quan trọng của nước ta.
Chia sẻ
Trò chơi: Hái hoa lịch sử
Câu 1 trang 48 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Chuẩn bị một số bông hoa giấy ghi yêu cầu cho người chơi.
Trả lời:
Em chuẩn bị hoa giấy và ghi yêu cầu cho người chơi.
Câu 2 trang 48 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Mỗi học sinh hái một bông hoa và tiếp nối nhau thực hiện yêu cầu viết trên bông hoa đó.
Trả lời:
Học sinh có thể tham khảo các yêu cầu sau:
– Bạn hãy nói tên vị vua có công dẹp loạn 12 sứ quân.
– Ai là người lập ra nhà Trần.
– Vị vua nào đã lập ra nhà Lý?
Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán
Ngô Quyền là một vị tướng nổi tiếng mưu lược, võ nghệ tinh thông. Ông được Dương Đình Nghệ giao quyền cai quản Ái Châu (thuộc Thanh Hóa ngày nay).
Năm 937, Dương Đình Nghệ bị con nuôi là Kiều Công Tiễn giết hại. Ngô Quyền kéo quân ra hỏi tội Công Tiễn. Công Tiễn run sợ, cho người sang cầu cứu vua Nam Hán. Vua Nam Hán muốn nhân nước ta có loạn mà đánh chiếm, liền sai thái tử Hoằng Tháo đem chiến thuyền, theo sông Bạch Đằng tiến vào nước ta. Bấy giờ, được sự ủng hộ của mọi người, Ngô Quyền đã diệt được Kiều Công Tiễn.
Nghe tin Hoằng Tháo sắp đến, Ngô Quyền nói với các tướng:
– Bọn địch từ xa mỏi mệt, lại nghe tin Công Tiễn bị giết, mất kẻ nội ứng thì hồn vía chẳng còn. Quân ta sức đang khoẻ, ắt phá được chúng. Nhưng chúng
nhiều chiến thuyền, ta phải có kế.
Ông sai người lấy gỗ tốt vạt nhọn đầu, bịt sắt rồi ngầm đóng xuống hai bên của sông. Thuỷ triều lên, quân ta chèo thuyền nhẹ ra khiêu chiến rồi giả thua dụ địch đuổi theo. Hoằng Tháo trúng kế. Khi chiến thuyền của giặc lọt sâu vào vùng cầm cọc cũng là lúc thuỷ triều xuống, cọc nhô dần lên. Ngô Quyền tung quân ra đánh. Quân giặc rối loạn, nước rút quá nhanh, thuyền vuông cọc, bị lật úp, vỡ và đầm rất nhiều, quân sĩ chết quá nửa. Tướng giặc Hoằng Tháo bị giết trên sông Bạch Đằng. Bọn tàn quân chạy tháo thân về nước.
Chiến thắng Bạch Đằng đã chấm dứt mộng xâm lăng của giặc phương Bắc, mở ra thời kì độc lập lâu dài trong lịch sử nước ta.
Theo Nguyễn Khác Thuận
Đọc hiểu
Câu 1 trang 50 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Vua Nam Hán mượn cớ gì để xâm lược nước ta?
Trả lời:
Vua Nam Hán mượn cớ nước ta có loạn để đánh chiếm, xâm lược nước ta.
Câu 2 trang 50 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng diễn ra như thế nào?
Trả lời:
Trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng: Ngô Quyền sai người lấy gỗ tốt vạt nhọn đầu, bịt sắt rồi ngâm xuống đóng 2 bên cửa sông, thủy triều lên quân ta chèo thuyền nhẹ ra khiêu chiến giả thua dụ địch đuổi theo lọt sâu vào vùng cắm cọc lúc thủy triều xuống. Lúc này tung quân ra đánh khiến giặc rối loạn, thuyền bị lật úp và vỡ. Quân giặc thua và tháo chạy.
Câu 3 trang 50 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Những chi tiết nào cho thấy Ngô Quyền là một vị chỉ huy rất mưu lược?
Trả lời:
Những chi tiết như nghe tin Hoàng Tháo sắp đến, biết địch từ xa đến mỏi mệt, mất kẻ nội ứng, quân ta đang khỏe ắt phá được chúng và dùng cọc để ngầm đóng xuống biển…. cho thấy Ngô Quyền là một vị chỉ huy rất mưu lược.
Câu 4 trang 50 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Chiến thắng Bạch Đằng có ý nghĩa như thế nào đối với lịch sử nước ta?
Trả lời:
Chiến thắng Bạch Đằng đã chấm dứt mộng xâm lăng của giặc phương Bắc, mở ra thời kì độc lập lâu dài trong lịch sử nước ta.
Câu 5 trang 50 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Chủ đề của câu chuyện này là gì?
Trả lời:
Chủ đề của câu chuyện này là công cuộc giữ nước lịch sử của Ngô Quyền.
Tự đọc sách báo trang 50
Câu 1 trang 50 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Tìm đọc thêm ở nhà:
– 2 câu chuyện (hoặc 1 câu chuyện, 1 bài thơ) về lịch sử bảo vệ Tổ quốc
của nhân dân ta.
– 1 bài văn (bài báo) miêu tả hoặc cung cấp thông tin về các nội dung trên.
Trả lời:
– 2 câu chuyện (hoặc 1 câu chuyện, 1 bài thơ) về lịch sử bảo vệ Tổ quốc
của nhân dân ta: Quang Trung đại phá Quân Thanh (Ngô gia văn phái)
– 1 bài văn (bài báo) miêu tả hoặc cung cấp thông tin về các nội dung trên.
Đọc “Hồi thứ 14” trong “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô gia văn phái, ta thấy người anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ là một bậc kì tài quân sự. Khi nghe được tin cấp báo quân Thanh sang xâm lược nước ta, ông đã tự mình vạch ra phương lược tiến đánh. Ông trực tiếp chỉ huy đại binh thần tốc, bí mật tiến ra Bắc, một cuộc tiến công chưa từng có trong lịch sử trước đó. Ông là người có tài điều binh khiển tướng, tài đó được thể hiện rõ nhất trong lời phủ dụ quân lính ở Nghệ An và trong cách xử trí tướng sĩ. Lời hịch của ông là lời của non sông đất nước, kích thích lòng yêu nước, khơi gợi chí căm thù và khích lệ tinh thần xả thân cứu nước. Cách đánh giặc của Quang Trung đa dạng, linh hoạt, phong phú và luôn ở thế chủ động khiến quân giặc trở tay không kịp. Khi thì bí mật bao vây giặc ở đồn Hà Hồi; lúc thì áp sát đánh giặc dũng cảm, táo bạo ở đồn Ngọc Hồi; lúc đánh nghi binh ở đê Yên Duyên; khi mai phục ở Đầm Mực… Quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của Quang Trung tiến quân như vũ bão khiến giặc đại bại “thây chất đầy đồng, máu trôi đỏ nước”, tướng Sầm Nghi Đống “thắt cổ tự vẫn”, Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy về nước “ngựa không kịp đóng yên”… Quả thật, Quang Trung là bậc anh hùng lão luyện, là nhà quân sự đại tài mà lịch sử đời đời ghi nhớ, nhân dân ta đời đời biết ơn. Xây dựng và khắc họa hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ là một thành công đặc sắc của các văn sĩ trong Ngô gia văn phái. Nó làm cho trang văn “Hoàng Lê nhất thống chí” thấm đẫm chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng Đại Việt.
Câu 2 trang 50 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Viết vào phiếu đọc sách:
– Tên bài đọc và một số nội dung chính của bài đọc (sự việc, nhân vật, hình ảnh, câu văn em thích).
– Cảm nghĩ của em về một trong những nội dung trên.
Tham khảo:
– Tên bài đọc và một số nội dung chính của bài đọc (sự việc, nhân vật, hình ảnh, câu văn em thích): Sự tích Hồ Gươm, Thánh Gióng
– Cảm nghĩ của em về một trong những nội dung trên:
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, trải qua biết bao cuộc chiến đấu. Đó là một truyền thống tốt đẹp, tự hào của cha ông ta. Những trang sử đó được thể hiện trong các truyện Thánh Gióng, Sự tích Hồ Gươm. Lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết là một trong những nét đặc trưng của dân tộc ta, điều đó được thể hiện qua việc dân làng “đồng tâm hiệp lực” góp gạo nuôi lớn Thánh Gióng. Nhờ có sự nuôi lớn của dân làng mà Thánh Gióng “lớn nhanh như thổi”, lên đường đánh đuổi giặc ngoại xâm. Sự tích Hồ Gươm tái hiện lại tinh thần đoàn kết của dân tộc ta trong việc đấu tranh chống giặc, đồng thời việc được thanh gươm đánh giặc của chàng đánh cá cũng thể hiện sự ở hiền gặp lành. Qua những tác phẩm đó thể hiện tinh thần ngoan cường đấu tranh của ông cha ta
Viết: Luyện tập tả con vật trang 51
Câu 1 trang 51 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Nhận xét về cách tả ngoại hình của con vật ở các đoạn văn in nghiêng dưới đây:
a, ” Meo,meo”!. Đấy, chú bạn mới của tôi lại đến chơi với tôi đấy.
Chà, nó có bộ lông mới đẹp làm sao! Màu lông hung hung có sắc vằn đo đỏ, rất đúng với cái tên mà tôi đã đặt cho nó. Mèo Hung có cái đầu tròn tròn, hai cái tai dong dỏng dựng ban đêm, đôi mắt ấy sáng lên giúp mèo nhìn rõ mọi vật. Bộ ria mép vểnh lên có vẻ oai lắm. Bốn chân thì thon thon, bước đi một cách nhẹ nhàng như lướt trên mặt đất. Cái đuôi dài trông thướt tha duyên dáng. Mèo Hung trông thật đáng yêu!
Hoàng Đức Hải, Con mèo Hung
b, Những con ngan nhỏ mới nở được ba hôm chỉ to hơn cái trứng một tí.
Chúng có bộ lông vàng óng. Một màu vàng đáng yêu như màu của những con tơ nõn mới guồng. Nhưng đẹp nhất là đôi mắt với cái mỏ. Đôi mắt chỉ bằng hột cườm, đen nhánh hạt huyền, lúc nào cũng long lanh đưa đi đưa lại như có nước, làm hoạt động hai con ngươi bóng mỡ. Một cái mỏ màu nhung hươu, vừa bằng ngón tay đứa bé mới đẻ và có lẽ cũng mềm như thế, mọc ngăn ngắn đằng trước. Cái đầu xinh xinh, vàng nuột và ở dưới bụng, lủn chủn hai cái chân bé tí màu đỏ hồng.
Tô Hoài, Đàn ngan mới nở
Trả lời
a,
– Tác giả đã tả bộ lông và hình dáng bề ngoài, đặc điểm hình dáng của con mèo.
– Các chi tiết được miêu tả theo trình tự từ trên xuống dưới.
– Các chi tiết thể hiện sự quan sát chính xác của tác giả như: Màu lông hung hung có sắc vằn đo đỏ, hai cái tai dong dỏng dựng ban đêm, đôi mắt ấy sáng lên, bước đi một cách nhẹ nhàng như lướt trên mặt đất
– Các hình ảnh so sánh và nhân hóa như: bước đi một cách nhẹ nhàng như lướt trên mặt đất….
-> Tác giả thể hiện tình cảm đối với con mèo thông qua các từ ngữ như: đáng yêu, chú bạn
b,
– Tác giả đã tả bộ lông và hình dáng bề ngoài, đặc điểm hình dáng của con ngan.
– Các chi tiết được miêu tả theo trình tự từ trên xuống dưới.
– Các chi tiết thể hiện sự quan sát chính xác của tác giả như: Đôi mắt chỉ bằng hột cườm, đen nhánh hạt huyền, lúc nào cũng long lanh như có nước….
– Các hình ảnh so sánh và nhân hóa như: Một màu vàng đáng yêu như màu của những con tơ nõn mới guồng
-> Tác giả thể hiện tình cảm đối với con mèo thông qua các từ ngữ như: xinh xinh
Câu 2 trang 51 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Dựa theo dàn ý đã lập ở bài 13, hãy viết đoạn văn tả ngoại hình của con vật mà em yêu thích.
Trả lời:
Sinh ra và lớn lên nơi vùng quê thanh bình, êm ả, em đã quen với hình ảnh từng đàn bồ câu trên những mái ngói đỏ tươi. Có lẽ vì thế, tình cảm dành cho loài chim này trở nên sâu sắc hơn. Mỗi chú chim đều có vẻ ngoài vô cùng xinh đẹp. Chúng khoác lên mình bộ lông trắng tinh, cũng có con điểm thêm chút màu đen, xám. Lông chim mượt mà, mịn màng như nhung, sờ vào cảm giác rất thoải mái. Không giống như chim đại bàng to lớn, bồ câu có thân hình mảnh mai, bé nhỏ. Con trưởng thành to như cái bình trà của ông nội, con non thì chỉ bé bằng nắm tay trẻ con. Cái đầu chúng chỉ nhỉnh hơn hạt mít một chút, nho nhỏ, xinh xinh, lắc la lắc lư rất đáng yêu. Đẹp nhất ở loài chim này là đôi mắt đen láy, tròn xoe, long lanh sáng ngời lại ánh lên vẻ hiền dịu hiếm có. Những người có đôi mắt đẹp đều được ví như đôi mắt bồ câu… Em rất thích chơi cùng bồ câu nên cứ mỗi chiều chiều em lại mang ít thóc cho chim ăn và chơi cùng nó.
Nói và nghe: Kể chuyện: Danh tướng Lý Thường Kiệt trang 52
Câu 1 trang 52 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Nghe và kể lại câu chuyện dựa theo các câu hỏi
a) Lý Thường Kiệt đã làm gì để chủ động phá âm mưu xâm lược của địch?
b) Lần thức nhất vượt sông, quân địch bị đánh bại như thế nào?
c) Quân địch tiếp tục thảm bại như thế nào trong lần thứ hai vượt sông?
d) “Bài thơ thần” đã khích lệ quân sĩ như thế nào?
e) Lý Thường Kiệt đã làm gì để sớm kết thúc chiến tranh?
Trả lời:
Em nghe thầy cô giáo kể lại câu chuyện và trả lời các câu hỏi.
Câu 2 trang 52 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Trao đổi về câu chuyện trên:
a, Câu chuyện cho thấy điều gì về tài năng của Lý Thường Kiệt?
b, Chi tiết nào trong câu chuyện gây ấn tượng mạnh nhất đối với em? Vì sao?
Trả lời:
a, Câu chuyện cho thấy trí tuệ thông minh sáng suốt, tài cầm quân đánh giặc của Lý Thường Kiệt.
b, Chi tiết đọc bài thơ thần gây ấn tượng nhất đối với em. Vì bài thơ là vũ khí sắc bén khiến quân giặc phải run sợ,…
Đọc: Mít tinh mừng độc lập trang 53, 54
* Nội dung chính Mít tinh mừng độc lập: Xuyên suốt bài đọc là khung cảnh người dân nô nức về dự cuộc mít tinh, song song với đó là niềm vui vô bờ bến của người dân khi nước nhà độc lập.
– Ra coi, mau lên!
Chị tôi vừa gọi vừa kéo tôi chạy ra cửa. Chị chỉ tay về phía bót có: – Thấy gì chưa?
Tôi thấy rồi. Cờ! Cờ đỏ sao vàng trên cột cờ trước bót bay phấp phới. Tôi lặng đi trước màu đỏ rực rỡ với ngôi sao vàng năm cánh trên nền trời xanh mênh mông của buổi sáng.
Như mùa hoa đến ngày nở rộ, cờ đỏ sao vàng mọc dần lên trước của mỗi ngôi nhà. Rồi mỗi người trên tay một lá cờ, lần lượt đổ ra sân chợ. Trên dòng sông mênh mông, những chiếc xuồng với lá cờ mỗi lúc mỗi gần nhau, đổ về bến chợ. Xuồng nối nhau, san sát, kết thành một chiếc bè đầy cờ, bập bềnh trên mặt sông.
Chiều hôm ấy, người từ các nơi đổ về đứng chật cả sân chợ. Đó là buổi mít tinh đầu tiên của toàn dân trong làng mừng ngày Cách mạng tháng Tám thành công.
Tiếng hô từ trên khán đài vang lên:
– Cách mạng tháng Tám thành công!
– Chấm dứt một trăm năm nô lệ!
– Việt Nam Độc lập, Tự do, Hạnh phúc muôn năm!
Mọi người như dậy lên. Ai cũng muốn cất tiếng hát, nhưng không biết hát bài gì. Bấy giờ, không có một bài hát nào đủ cho con người được hả hê mừng ngày chấm dứt đời nô lệ. Thế là mạnh ai nấy hét, vừa hét, vừa giơ cao tay vẫy cờ. Rồi tất cả cùng cất tiếng hoà theo. Đó là một bài hát không được soạn trước, một bài hát không lời, phát ra từ sức mạnh trong lồng ngực của mỗi người. Một bài hát không thể hát lại lần thứ hai mà vang mãi với đời người.
Theo Nguyễn Quang Sáng
Đọc hiểu
Câu 1 trang 54 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Hình ảnh cờ đỏ sao vàng bay trước bót cỏ nói lên điều gì?
Trả lời:
Hình ảnch cờ đỏ sao vàng bay trước bót cỏ nói lên nước nhà đã độc lập, kết thúc chiến tranh.
Câu 2 trang 54 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Tìm những hình ảnh người dân nô nức về dự cuộc mít tinh.
Trả lời:
Những hình ảnh người dân nô nức về dự cuộc mít tinh là: người từ các nơi đổ về đứng chật cả sân chợ….
Câu 3 trang 54 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Những chi tiết nào thể hiện niềm vui vô bờ bến của người dân mừng nước nhà độc lập?
Trả lời:
Những chi tiết thể hiện niềm vui vô bờ bến của người dân mừng nước nhà độc lập là: mệnh ai người nấy hét, vừa hét vừa giơ cao tay vẫy cờ, tất cả cùng cất tiếng hòa theo…
Câu 4 trang 54 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Tiếng hét vang của mọi người được so sánh với gì?
Trả lời:
Tiếng hét vang của mọi người được so sánh với bài hát vang mãi với đời người.
Câu 5 trang 54 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Theo em, vì sao “bài hát” ấy chỉ cất lên một lần mà “vang mãi với đời người?
Trả lời:
Theo em, “bài hát” ấy chỉ cất lên một lần mà ” vang mãi với đời người” vì đó là bài hát của chiến thắng, bài hát mà chỉ trong một khoảnh khắc duy nhất đó sau bao nhiêu năm chịu sự áp bức, đô hộ mà được cất lên không gì có thể sánh bằng.
Luyện từ và câu: Trạng ngữ trang 54, 55
I. Nhận xét
Câu 1 trang 54 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Đặt và trả lời câu hỏi cho bộ phận in đậm trong các câu dưới đây:
a) Ở Ea Lâm bây giờ, nhà nào cũng có fi vi, xe máy, nhà cửa khang trang, nước sạch đến tận nhà.
Theo Hoàng Hà Thế – Ngọc Ánh
b) Chiều hôm ấy, người từ các nơi đổ về đúng chật cả sân chợ.
Nguyễn Quang Sáng
c) Để khỏi ngã, chim sẻ phải bám vào cành cây bằng cả hai chân. Vì quen dùng đồng thời hai chân, khi di chuyển trên mặt đất, chúng thường nhảy chứ không đi lại được bình thường như chim bồ câu.
Theo sách 10 vạn câu hỏi “Vì sao?”
Trả lời:
a) Ở Ea Lâm bây giờ, nhà nào cũng có fi vi, xe máy, nhà cửa khang trang, nước sạch đến tận nhà.
b) Chiều hôm ấy, người từ các nơi đổ về đúng chật cả sân chợ.
c) Để khỏi ngã, chim sẻ phải bám vào cành cây bằng cả hai chân. Vì quen dùng đồng thời hai chân, khi di chuyển trên mặt đất, chúng thường nhảy chứ không đi lại được bình thường như chim bồ câu.
Câu 2 trang 55 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Mỗi bộ phận nói trên trả lời cho câu hỏi nào?
Trả lời:
a) Ở đâu?
b) Khi nào?
c) Để làm gì?
d) Bằng gì?
e) Để làm gì?
II. Bài học
Trạng ngữ là thành phần phụ của câu, bổ sung cho câu những thông tin sau:
a) Thời gian diễn ra sự việc (trả lời cho câu hỏi khi nào? Bao giờ?)
b) Địa điểm diễn ra sự việc (trả lời cho câu hỏi ở đâu?)
c) Nguyên nhân của sự việc (trả lời cho câu hỏi vì sao?)
d) Mục đích của hoạt động (trả lời cho câu hỏi để làm gì?)
e) Phương tiện thực hiện hoạt động (trả lời cho câu hỏi bằng gì?)
III. Luyện tập
Câu 1 trang 55 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Tìm trạng ngữ trong các câu sau:
a, Tháng 12 năm 1075, Lý Thường Kiệt đem quân phá tan ba thành trì của địch. Vì bị mất lương thảo và vũ khí tích trữ ở đó, hơn một năm sau, nhà Tống mới cử Quách Quỳ chỉ huy đại quân tràn vào Đại Việt.
b, Lý Thường Kiệt cử người sang nghị hòa, mở đường cho quân xâm lược rút lui để sớm kết thúc chiến tranh
c, Trên dòng sông mênh mông, những chiếc xuồng với lá cờ mỗi lúc mỗi gần nhau, đổ về bến chợ.
Trả lời
a, Tháng 12 năm 1075; Vì bị mất lương thảo và vũ khí tích trữ ở đó, hơn một năm sau,
b, Để sớm kết thúc chiến tranh
c, Trên dòng sông mênh mông
Câu 2 trang 55 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Đặt một câu nói về hoạt động đền ơn đáp nghĩa hoặc hoạt động kỉ niệm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam ở trường em, trong câu có trạng ngữ.
Trả lời:
Nhân ngày kỉ niệm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, trường em tổ chức hoạt động đền ơn đáp nghĩa. -> Trạng ngữ là: Nhân ngày kỉ niệm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam
Viết: Luyện tập tả con vật trang 56
Câu 1 trang 56 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Nhận xét về cách tả tính tình, hoạt động của con vật ở hai đoạn văn dưới đây:
a, Có một hôm, tôi đang ngồi học, bỗng thấy nó rón rén bước từng bước nhẹ nhàng đến bên bồ thóc ngồi rình. A! Con mèo này khôn thật! Chả là ngày thường chuột hay vào bồ ăn vụng thóc nên mèo mới rình ở đây. Bỗng nhiên nó chụm bốn chân lại, dặt dặt cái đuôi lấy đà rồi “phốc” một cái. Thế lò một con chuột đã nằm gọn ngay trong vuốt của nó… Nhiều lúc tôi đang học bài, chú ta đến dụi dụi vào tay, muốn tôi vuốt ve bộ lông mượt như nhung hoặc đùa với chú một tí.
Hoàng Đức Hải, Con mèo Hung
b) Con mèo hay nằm lim dim ngoài sân để sưởi nắng và cũng để rình bắt lũ thằn lằn. Lần đầu tiên, khi phóng đôi chân nhỏ yếu để vượt qua một độ cao quá sức, nơi con thằn lằn đang nghiêng đầu ngó nó, con mèo trượt ngã một cú nặng, phải nằm thở đốc. Tôi thương quá, vội chạy đến ôm nó vào lòng, Không ngờ nó vùng khỏi tay tôi, kêu lên một tiếng “meo” giận dỗi rồi phóng mình lên cao một lần nữa, lần nữa. Cứ mỗi lần ngã là một lần nó bật kêu một tiếng “meo” đầy tức giận, rồi lại tiếp tục phóng lên. Lần cuối cùng, nó phóng lên được đúng độ cao cần đạt thì con thằn lằn đã rút êm sang chỗ khác. Tuy vậy, nó vẫn ngồi trên gờ tường cửa sổ, nhìn xuống tôi và kêu lên những tiếng “meo, meo,…” đầy hãnh diện.
Bạch Nguyên, Người thầy của tuổi thơ.
Trả lời:
a,
– Tác giả tả hoạt động bắt chuột và muốn vuốt ve của con mèo.
– Các chi tiết về hoạt động của con mèo được miêu tả theo trình tự thời gian
– Hoạt động của con mèo thể hiện sự năng động của nó.
– Tác giả thể hiện tình cảm qua việc sử dụng các từ như: khôn thật
b,
– Tác giả tả hoạt động sưởi nắng và rình bắt lũ thằn lằn của con mèo.
– Các chi tiết về hoạt động của con mèo được miêu tả theo trình tự thời gian.
– Hoạt động của con mèo thể hiện sự năng động và kiên trì, không cam chịu của nó.
– Tác giả thể hiện tình cảm qua việc sử dụng các từ như: tôi thương quá
Câu 2 trang 56 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Dựa vào dàn ý đã lập ở bài 13, hãy viết đoạn văn về tính tình, hoạt động của con vật mà em yêu thích.
Trả lời:
Một lần tình cờ, em chứng kiến cảnh Mi Mi bắt chuột thật là ngoạn mục. Cô nàng nép mình sau lu gạo kiên trì rình rập. Dường như đến cả hơi thơ cô nàng cũng cố giữ cho thật khẽ. Thấy im ắng quá, một thằng chuột nhắt từ trong hốc bếp chui ra, ngó ngang ngó dọc ra chiều cảnh giác. Thằng chuột có vẻ yên tâm từ từ tiến về phía lu gạo, Mi Mi vẫn bất động. Thằng chuột và lu gạo mỗi lúc một gần, Mi Mi khẽ thu mình lại. Thằng chuột đã đến gần lu gạo và chắc mẩm sẽ được một bữa no nê. Tựa như chiếc lò xo bị nén chỉ chờ bật ra, Mi Mi phốc tới như một mũi tên. Thằng chuột nhắt đáng ghét đã nằm gọn dưới mười chiếc vuốt nhọn hoắt, Mi Mi của em bắt chuột thật là tài.
Đọc: Bức ảnh trang 57, 58
* Nội dung chính Bức ảnh: Bài đọc chứa đựng một câu chuyện kể về một bức ảnh giữa cô bộ đội trẻ và một cháu bé. Đó không chỉ đơn thuần là một bức ảnh thông thường, mà còn là một bức ảnh thể hiện sự giúp đỡ, đùm bọc nhau trong hoàn cảnh khó khăn, chiến tranh liên miên.
Tháng 2 năm 1979, trên đường hành quân bảo vệ biên cương của Tổ quốc, một tổ trinh sát của bộ đội ta nghe tiếng trẻ con khóc, liền chia nhau đi tìm. Họ phát hiện một phụ nữ trúng đạn địch, nằm ngất bên đường mòn. Đứa con gái chúng ba tuổi gào khóc bên mẹ đã lạc cả giọng. Các chiến sĩ thay nhau cõng bà mẹ và cháu bé xuyên đêm luồn rừng, tìm về trạm quân y. Trên suốt chặng đường dài, cháu bé được một nữ chiến sĩ trẻ dỗ dành, chăm sóc.
Hình ảnh cô bộ đội trẻ, vai khoác súng, tay bế cháu bé đã lọt vào ống kính của một phóng viên. Bức ảnh được đăng trên bảo, gây xúc động lớn. Nhưng gần bốn mươi năm sau, nhờ nỗ lực của một nhóm phóng viên, hai người trong tấm ảnh mới gặp lại được nhau. Người nữ chiến sĩ là bà Bùi Thị Mũi, quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Bà Mũi nay đã già yếu. Còn cô bé năm xưa cũng đã ở tuổi bốn mươi. Đó là cô Hoàng Thị Hiền ở huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng.
Được biết địa chỉ ân nhân, cô Hiển bắt xe đi suốt đêm từ Cao Bằng về Hà Nội rồi ngược lên Phú Thọ. Cả đêm ấy, cô không sao ngủ được. Bước vào căn nhà đơn sơ của bà Mũi, cô trào nước mắt, lao tới bên giường bệnh, chỉ gọi được hai tiếng “Mẹ ơi!” rồi cứ thế, hai mẹ con ôm nhau nức nở, không nói nên lời.
Theo Mai Thanh Hải
Câu 1 trang 57 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Hai mẹ con cô bé được tổ trinh sát phát hiện trong hoàn cảnh nào?
Trả lời:
Hai mẹ con cô bé được tổ trinh sát phát hiện trong hoàn cảnh người mẹ bị trúng đạn địch, nằm ngất bên đường mòn.
Câu 2 trang 57 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Theo em, vì sao bức ảnh cô bộ đội trẻ bế cháu lại gây xúc động lớn?
Trả lời:
Theo em, bức ảnh cô bộ đội trẻ bế cháu lại gây xúc động lớn vì thể hiện sự giúp đỡ, đùm bọc nhau trong hoàn cảnh khó khăn, chiến tranh liên miên.
Câu 3 trang 58 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Những ai đã giúp cô bé trong bức ảnh năm xưa tìm lại được ân nhân của mình?
Trả lời:
Một nhóm phóng viên đã giúp cô bé trong bức ảnh năm xưa tìm lại được ân nhân của mình.
Câu 4 trang 58 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Cuộc gặp gỡ của cô Hiền và bà Mùi diễn ra như thế nào?
Trả lời:
Cuộc gặp gỡ của cô Hiền và bà Mùi diễn ra đầy xúc động trong một căn nhà đơn sơ. Cô Mùi trào nước mắt, lao tới giường bệnh và gọi mẹ ơi.
Câu 5 trang 58 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Qua câu chuyện trên, em hiểu các chiến sĩ quyết tâm bảo vệ từng tấc đất của Tổ quốc là vì ai?
Trả lời:
Qua câu chuyện trên, em hiểu các chiến sĩ quyết tâm bảo vệ từng tấc đất của Tổ quốc là nhân dân, vì tất cả mọi người trên đất nước này.
Viết: Luyện tập tả con vật trang 58
Đề bài trang 58 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Dựa vào dàn ý đã lập, viết bài văn tả một con vật mà em yêu thích.
Trả lời:
Tham khảo bài viết:
Vào ngày sinh nhật lần thứ 8 của em , bà ngoại có tặng em một chú mèo rất dễ thương và đáng yêu. Vừa nhìn thấy chú là em đã vui mừng và thích thú lắm!Em thường gọi chú với cái tên dễ thương là Mi.
“Meo, meo, meo”, hôm nào cũng vậy, cứ khi em ngồi vào bàn học bài là chú Mi lại đến nằm dụi đầu vào chân em. Mi thân thiết và gắn bó với em từng ngày.
Ngày bà ngoại cho, con mèo chỉ bằng chai nước khoáng nhỏ nhưng bây giờ thì nó đã to bằng cái chai Cô-ca đại bự. Toàn thân chú được bao phủ một màu vàng và điểm thêm vài vệt trắng làm cho chiếc áo của chú lại càng thêm đẹp. Cái đầu của chú to hơn quả bóng ten-nít một chút. Đôi mắt tròn như hai hòn bi ve và sáng như đèn pha. Cái mũi phơn phớt hồng, lúc nào cũng ươn ướt như người bị cúm sổ mũi vậy. Cái tai của chú mới thính làm sao ! Chỉ một tiếng động nhỏ, chú đều phát hiện được đó là tiếng gì, có cần phải giải quyết hay không. Cái tai và cái mũi đó chính là cái ra-đa của chú để phát hiện những tên chuột láu lỉnh hay phá hoại, ăn trộm thóc gạo của người. Cổ Mi được quàng một chiếc khăn màu trắng đục. Bốn cái chân không cao lắm so với thân hình chú nhưng lại chạy rất nhanh. Dưới bàn chân là một lớp thịt dày, mịn, màu hồng nhạt.
Bà em bảo những miếng thịt đó giúp Mi di chuyển nhẹ nhàng, không gây một tiếng động nhỏ, làm cho nhiều chú chuột không ngờ. Những chiếc vuốt của chú rất nhọn và sắc. Đã có lần, những chiếc vuốt đó đã để lại dấu vết trên tay em khi em đùa vui, nghịch ngợm với chú. Chính những chiếc vuốt đó là thứ vũ khí lợi hại của chú mà mỗi con chuột khi nhìn thấy phải kinh hoàng. Mỗi khi muốn chơi với em, chú lại dùng đầu dụi vào tay em rồi lấy những cái vuốt ấy cào cào nhẹ vào bàn tay em. Chao ôi ! Cái đuôi của chú mới dẻo làm sao ! Chiếc đuôi như một cái dấu ngã, chẳng giấu vào đâu được. Hôm nào cũng vậy, chú ta cứ ngủ khì. Thế nhưng lũ chuột cũng chẳng dám ra quấy phá vì chú rất tinh, cũng có thể lũ chuột cảnh giác, nghĩ là Mi đang rình chúng đấy. Ban đêm, Mi ta mới đi làm cho chủ. Chú ta biết hết đường đi lối lại của bọn chuột.
Không con chuột nào chạy thoát nếu chú đã phát hiện được. Có lần, em được chứng kiến nó bắt chuột ban ngày. Có lẽ, con chuột đó đói quá phải đi ăn trộm ban ngày. Chú Mi ngụy trang rất khéo, chú nằm khuất sau cái chổi cạnh chân hòm cáng thóc. Một con chuột nhắt rất tinh ranh, mắt lấm lét, đi nhẹ nhàng đến định trèo lên hòm thóc để chui vào ăn thóc. Mi nằm yên như đang ngủ. Bỗng “chụp” một cái, chỉ nghe thấy tiếng“chít” tuyệt vọng, Mi ta đã vồ gọn con mồi trong móng vuốt của chú. Hả hê với chiến thắng của mình, Mi tha con chuột đó ra vườn. Chú nhả con chuột ra, lấy cái chân trước vờn đi vờn lại con chuột đó. Con chuột vội chạy đi nhưng chạy sao thoát. Em nghĩ con chuột đó chỉ sợ đã chết. Thế rồi, chú ta ung dung ngồi chén hết con chuột nhắt đó. Mỗi lần chú bắt được chuột, em đều vuốt ve động viên chú. Đến bữa, em lại thưởng cho chú những miếng ăn ngon nhất. Mi tỏ vẻ sung sướng lắm.
Mi ăn rất ít, hàng ngày chú ta ăn không hết một bát cơm. Khi ăn, chú ta cứ nhỏ nhẻ từng tí một. Em thường nghe mọi người nói “ăn như mèo” quả không sai. Dù đói đến đâu thì Mi cũng ăn rất từ tốn. Khác với Vàng- chú cún tinh nghịch nhà em, cứ ăn hùng hục. Vàng và Mi rất thân với nhau. Ngày nào, chúng cũng chơi đùa với nhau mà không có xích mích gì cả.
Buổi sáng, khi nắng vàng trải khắp sân, Mi nằm duỗi dài bốn chân, mắt lim dim, trông thật đáng yêu. Thỉnh thoảng , nó lại cho tay lên mặt cào cào, như là nó đang rửa mặt. Buổi tối, khi cả nhà ăn cơm xong, bao giờ Mi cũng tranh thủ ngồi vào lòng em nũng nịu.
Em rất yêu quý Mi. Míu không chỉ là vật kỉ niệm của bà ngoại tặng cho em mà nó còn là “dũng sĩ diệt chuột” của nhà em. Mi giúp nhà em rất nhiều trong chiến dịch diệt chuột. Từ ngày có Mi, nhà em không còn lo lũ chuột quấy phá. Em sẽ chăm sóc Mi cho khỏe, chơi với Mi vui vẻ để làm theo đúng lời dặn của bà em khi bà tặng Mi cho em.
Nói và nghe: Trao đổi: Tình yêu quê hương, đất nước trang 58, 59
Đề bài trang 58 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Chọn 1 trong 2 đề dưới đây:
1. Phát biểu cảm nghĩ của em về một câu chuyện đã học ở bài 14.
2. Trình bày ý kiến về biểu hiện của lòng yêu nước.
Trả lời:
1.
Câu chuyện Bức ảnh của tác giả Mai Thanh Hải đã để lại cho em nhiều ấn tượng sâu sắc. Chủ đề của câu chuyện ca ngợi người chiến sĩ chiến đấu bảo vệ nhân dân. Câu chuyện có nhiều chi tiết hay. Đó là bức ảnh cô bộ đội trẻ bế cháu bé gây xúc động lớn. Sau gần bốn mươi năm những người trong bức ảnh gặp lại nhau. Cuộc gặp gỡ diễn ra rất cảm động.
2. Khi nhắc đến nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt, chúng ta không thể bỏ qua tình yêu nước sâu sắc. Yêu nước không chỉ là một khái niệm thể hiện tình cảm, mà nó còn đại diện cho sự gần gũi, tinh tế và đầy cảm hứng, dẫn nguồn từ niềm tôn trọng và sự trân trọng mà chúng ta dành cho những gì xung quanh, cho những người mà chúng ta yêu mến.
Biểu hiện của tình yêu nước có mặt trong ý thức và hành động hằng ngày của mỗi người. Trong thời chiến, tình yêu nước tràn đầy sức sống và quẩy chầy cùng các cuộc khởi nghĩa, cùng với những nỗi niềm sẵn sàng hy sinh tính mạng khi đi quốc tịch. Trong thời bình, mỗi người thể hiện tình yêu nước bằng cách chăm chỉ học tập, lao động và rèn luyện đạo đức với mong muốn tạo ra một cuộc sống tươi đẹp hơn cho bản thân, gia đình và dân tộc. Vậy lòng yêu nước đã được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, trở thành nguồn năng lượng vô giá và sợi dây kết nối trái tim của những “con Lạc cháu Hồng”, giúp chúng ta tạo ra những chiến công “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Tình yêu nước của thế hệ trước đã tạo nên sự tin tưởng cho thế hệ sau. Mặc dù các thế hệ trẻ có thể sống và làm nghề tại nhiều nơi trên toàn thế giới, những người Việt Nam vẫn giữ trong trái tim mình niềm tình yêu nước sâu sắc, để nhớ, để tôn vinh và cũng để muốn có thể làm gì đó cho đất nước yêu quý hình chữ S của Việt Nam.
Đọc: Trường Sa trang 59, 60
* Nội dung chính Trường Sa: Bài thơ thể hiện tình cảm da diết của tác giả đối với Trường Sa và sự đồng lòng với cuộc sống của các chiến sĩ ở Trường Sa rất vất vả và thiếu thốn nhưng với tình yêu nước thì các chiến sĩ vẫn vui vẻ đối mặt.
Biển xanh ôm ấp trời xanh
Rồng Tiên thuở ấy sinh thành Trường Sa
Trùng khơi nào có ngái xa
Long lanh hạt cát đã là quê hương.
Ở đây chẳng có gì riêng
Lá thư chung đọc, nỗi niềm chung lo
Đêm vui chung một câu hò
Nhớ thương chung một cánh cò hoàng hôn.
Sơn Ca, Song Tử, Sinh Tồn
Thuyền Chài, Vĩnh Viễn… gửi hồn cha ông
Trường Sa nắng nỏ, bão dông
Cây phong ba với thành đồng lòng ta
Góc vườn xanh với tiếng gà
Cây súng thép với lời ca ngọt ngào.
Nguyễn Thế Kỷ
Đọc hiểu
Câu 1 trang 60 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Những từ ngữ, hình ảnh nào cho thấy Trường Sa từ rất lâu đời đã gắn bó với Tổ quốc Việt Nam?
Trả lời:
Những từ ngữ, hình ảnh cho thấy Trường Sa từ rất lâu đời đã gắn bó với Tổ quốc Việt Nam là: Rồng Tiên thuở ấy sinh thành Trường Sa, gửi hồn cha ông.
Câu 2 trang 60 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Bốn từ chung lặp lại ở khổ thơ thứ 2 nói lên điều gì về tình cảm của các chiến sĩ Trường Sa với đồng đội và với đất liền?
Trả lời:
Bốn từ chung lặp lại ở khổ thơ thứ 2 nói lên tình cảm của các chiến sĩ Trường Sa với đồng đội và với đất liền là như nhau, cùng một lòng không khác gì nhau dù là ai và dù ở đâu thì cũng sẽ như thế
Câu 3 trang 60 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Việc nhắc tên một số đảo ở Trường Sa thể hiện tình cảm của tác giả bài thơ như thế nào?
Trả lời:
Việc nhắc tên một số đảo ở Trường Sa thể hiện tình cảm của tác giả bài thơ thể hiện sự đồng lòng của tác giả với các chiến sĩ, các đảo thể hiện tình cảm này sẽ mãi tồn tại cùng thời gian.
Câu 4 trang 60 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Khổ thơ cuối cho em cảm nhận điều gì về cuộc sống của các chiến sĩ ở Trường Sa?
Trả lời:
Khổ thơ cuối cho em cảm nhận cuộc sống của các chiến sĩ ở Trường Sa rất vất vả và thiếu thốn nhưng với tình yêu nước thì các chiến sĩ vẫn vui vẻ đối mặt.
Luyện từ và câu: Luyện tập về trạng ngữ trang 60, 61
I. Nhận xét
Câu 1 trang 60 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Tìm trạng ngữ trong mỗi câu dưới đây:
Ngày hôm đó, mầm cỏ đã lấm tấm xanh khắp các ngọn đồi. Đêm ấy, trời mưa phùn. Đêm hôm sau, lại mưa tiếp. Sáng ngày thứ ba, Nhẫn lùa đàn bò ra đi.
Theo Hồ Phương
Trả lời:
Trạng ngữ: Ngày hôm đó, Đêm ấy, Đêm hôm sau, Sáng ngày thứ ba.
Câu 2 trang 60 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Trạng ngữ đứng ở vị trí nào trong mỗi câu trên.
Trả lời:
Trạng ngữ đứng ở vị trí đầu câu.
Câu 3 trang 60 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Trạng ngữ được ngăn cách với chủ ngữ và vị ngữ bằng dấu câu nào?
Trả lời:
Trạng ngữ được ngăn cách với chủ ngữ và vị ngữ bằng dấu phẩy.
II. Bài học:
Trạng ngữ thường đứng đầu câu, ngăn cách với hai thành phần chính của câu bằng dấu phẩy.
III. Luyện tập
Câu 1 trang 60 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Tìm trạng ngữ trong mỗi câu sau:
Thủa xưa, nước ta bị giặc Minh xâm lược. Bấy giờ, có ông Lê Lợi khởi nghĩa ở vùng Lam Sơn. Trong buổi đầu, vì còn yếu, nghĩa quân nhiều lần bị thua. Để giúp Lê Lợi đánh đuổi ngoại xâm, Đức Long Quân đã cho nghĩa quân mượn thanh gươm thần. Từ khi có gươm thần, nghĩa quân đánh đâu thắng đó. Sau khi đuổi giặc Minh về nước, Lê Lợi lên ngôi vua. Một năm sau, khi nhà vua cưỡi thuyền rồng dạo quanh hồ Tả Vọng, Long Quân sai Rùa Vàng lên lấy lại thanh gươm thần. Từ đó, hồ mang tên Hồ Gươm.
Theo truyện Sự tích Hồ Gươm
Trả lời:
Các trạng ngữ: Thủa xưa, Bấy giờ, Trong buổi đầu, vì còn yếu, Để giúp Lê Lợi đánh đuổi ngoại xâm, Từ khi có gươm thần, Sau khi đuổi giặc Minh về nước, Một năm sau, khi nhà vua cưỡi thuyền rồng dạo quanh hồ Tả Vọng, Từ đó.
Câu 2 trang 61 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Dựa vào nội dung bài đọc Trường Sa, viết một đoạn văn ngắn (4 – 5 câu) về các chiến sĩ ở Trường Sa, trong đó ít nhất một câu có trạng ngữ. Chỉ ra trạng ngữ trong câu đó.
Trả lời:
Với niềm tận tụy và sự hy sinh cao cả, người chiến sĩ trên đảo Trường Sa luôn đang làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo của đất nước, với nhiều thử thách và khó khăn, họ vẫn kiên trì và không từ bỏ trong công việc của mình. Ngày ngày, họ trực tiếp tham gia vào việc giám sát các tuyến đường biển, kiểm soát các hoạt động của tàu thuyền trong khu vực, và giữ gìn an ninh trật tự trên đảo. Với sự quyết tâm và nghị lực vững chắc, họ đang là những chiến sĩ bất khuất, luôn sẵn sàng đối mặt với bất kỳ thử thách nào để bảo vệ đất nước và nhân dân.
Góc sáng tạo: Những trang sử vàng trang 61
Câu 1 trang 61 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Chọn 1 trong 2 đề sau:
a, Viết đoạn văn giới thiệu một anh hùng trong lịch sử bảo vệ Tổ Quốc của nhân dân ta.
b, Viết đoạn văn ( hoặc đoạn nhật kí, bài thơ) về hoạt động ở trường em kỉ niệm một sự kiện lịch sử của nước ta.
Trả lời :
a.
– Bà Triệu : Bà Triệu còn được gọi là Triệu Ẩu, Triệu Thị Trinh, Triệu Trinh Nương hay Triệu Quốc Trinh, sinh ngày 2/10 năm Bính Ngọ 226 tại miền núi Quân Yên (hay Quan Yên), quận Cửu Chân, nay thuộc làng Quan Yên (hay gọi là Yên Thôn) xã Định Tiến, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Bà là một trong những vị anh hùng nổi tiếng trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Quê hương của Bà Triệu chính là quê hương của hai anh em Khương Công Phụ và Khương Công Phục – những người đã có công khai mach đại khoa Nho học cho Thanh Hóa nói riêng và cả nước nói chung. Bà Triệu mất năm 248, khi đó mới 22 tuổi. Đến nay, những câu chuyện về cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu vẫn còn in đậm trong tâm thức mỗi người Việt Nam với lòng ngưỡng mộ và tự hào. Bà được phong là “Bột chính anh hùng tài Trinh nhất phu nhân”. Có rất nhiều giai thoại nói về người anh hùng phụ nữ Triệu Thị Trinh.
– Lý Thường Kiệt : Trong lịch sử triều Lý, có lẽ Lý Thường Kiệt là một trong những cái tên nổi danh nhất khi ông phò Vua phá Tống bình Chiêm công danh hiển hách. Tuy nhiên, ít người biết ông vốn không thuộc hoàng tộc nhà Lý và lại càng ít người biết ông xuất thân từ quan thái giám. Lý Thường Kiệt vốn tên Ngô Tuấn, là con trai của tướng Ngô An Ngữ với phu nhân họ Hàn. Ông sinh năm 1019 dưới triều vua Lý Thái Tổ. Tương truyền, từ khi sinh ra, số mệnh Lý Thường Kiệt đã được báo trước là sẽ công danh hiển hách song lại phiền là không có con nối dõi. Tên tuổi Lý Thường Kiệt nổi như cồn, trở thành 1 nhân vật lớn trong thời đại nhà Lý. Trang sử vẻ vang nhất trong cuộc đời Lý Thường Kiệt và cũng là trong triều đại nhà Lý là cuộc kháng chiến chống Tống năm 1075-1077. Trang sử vẻ vang nhất trong cuộc đời Lý Thường Kiệt và cũng là trong triều đại nhà Lý là cuộc kháng chiến chống Tống năm 1075-1077. Năm 1105, Lý Thường Kiệt mất, được tặng chức Nhập nội điện đô tri kiểm hiệu thái úy bình chương quân quốc trọng sự, tước Việt quốc công, tặng thực ấp 1 vạn hộ. Trong lịch sử Việt Nam, Lý Thường Kiệt là thái giám đầu tiên nêu gương sáng về tấm lòng phò vua báo quốc. Trong lịch sử chiến tranh Đại Việt – Trung Quốc, ông là tướng Việt duy nhất chủ động đánh sang Trung Quốc để bẻ gãy mũi nhọn xâm lược của địch.
– Kim Đồng : Kim Đồng là một vị thiếu niên anh hùng. Anh là người dân tộc Nùng. Từ nhỏ, Kim Đồng đã tham gia cách mạng. Anh là đội trưởng Đội Nhi đồng cứu quốc. Nhiệm vụ của anh là giao liên, đưa đón Việt Minh và vận chuyển thư từ. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, Kim Đồng đã lập được nhiều chiến công. Một lần, khi các cán bộ đang có cuộc họp, anh phát hiện có quân Pháp tới. Anh đã trí đánh lạc hướng chúng và phát tín hiệu cho cán bộ rút lui an toàn. Sau này, Kim Đồng được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang. Em cảm thấy rất ngưỡng mộ và yêu quý anh Kim Đồng.
b.
Một hoạt động thường xuyên được tổ chức nhằm khuyến khích học sinh tập luyện thể dục thể thao đó là hội thi hội khỏe Phù Đổng. Đây là một cuộc thi mang nhiều ý nghĩa nhân văn. Đồng thời giáo dục lòng yêu nước đối với thế hệ trẻ.
Hội khỏe Phù Đổng là đại hội thể dục, thể thao trong nhà trường phổ thông dành cho học sinh Việt Nam do ngành giáo dục Việt Nam tổ chức. Tên gọi của hội thi có ý nghĩa rất lớn. Phù Đổng chính là tên gọi của một trong 31 xã thuộc huyện Gia Lâm thành phố Hà Nội. Phù Đổng nằm trong khu quần tụ của người Việt cổ thuở Vua Hùng dựng nước. Ngày nay tên gọi Phù Đổng gắn liền với truyền thuyết người anh hùng nào Thánh Gióng lừng lẫy, người có công đầu tiên giúp Vua Hùng đánh bại quân xâm lược nhà Ân. Hội khỏe Phù Đổng ra đời với mong muốn là hội thi biểu dương sức khỏe, lấy ý nghĩa từ truyền thuyết đánh giặc ngoại xâm của Thánh Gióng, một người có sức mạnh phi thường, lớn nhanh như thổi, vùng dậy vươn vai đã trở thành tráng sĩ cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt, mặc áo giáp sắt. Các trận đánh giặc dù quân giặc cỏ đông đến đâu cũng không hề khiếp sợ. Và làng Phù Đổng cũng chính là quê hương của Thánh Gióng. Đồng thời hội thi cũng giáo dục về lòng yêu nước, ý thức bảo vệ quốc gia cho thế hệ trẻ. Đồng thời khuyến khích thế hệ thanh thiếu niên rèn luyện sức khỏe.
Trong kỳ thi này có rất nhiều bộ môn thể thao được thi đấu như bóng đá, bóng rổ, bóng chuyền, bơi lội, cầu lông, đá cầu….. Hội khỏe Phù Đổng toàn quốc được tổ chức 4 năm một lần. Cấp khu vực được tổ chức 4 năm một lần, cấp tỉnh tổ chức hai năm một lần, cấp huyện tổ chức hai năm một lần, cấp trường tổ chức mỗi năm một lần. Vì vậy trong 12 năm học học sinh Việt Nam chỉ có thể tham gia tối đa ba Kỳ Hội khỏe Phù Đổng cấp quốc gia và các khu vực 6 kỳ hội khỏe Phù Đổng cấp tỉnh và cấp huyện.
Hội khỏe phù đổng được tổ chức để góp phần duy trì và đẩy mạnh của vận động toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại. Thường xuyên tập luyện và thi đấu các môn thể thao cho học sinh phổ thông để nâng cao sức khỏe, phát triển thể chất toàn diện cho học sinh. Hội thi này được tổ chức để phát hiện, bồi dưỡng và đào tạo những tài năng thể dục, thể thao cho đất nước, tổng kết đánh giá công tác giáo dục thể chất và hoạt động thể thao trong các trường học.
Hội khỏe Phù Đổng là một hội thi rất có ý nghĩa đối với thế hệ học sinh. Hội khỏe Phù Đổng ra đời đã giúp nâng cao tinh thần yêu nước, đồng thời khuyến khích việc tập thể dục thể thao cho đối tượng là học sinh trong các nhà trường.
Câu 2 trang 61 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Giới thiệu và bình chọn bài viết hay, có hình ảnh đẹp.
Trả lời :
Chị Võ Thị Sáu sinh năm 1933 tại quận Đất Đỏ, nay là huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Chị làm liên lạc cho công an quận.
Chị là người mưu trí, dũng cảm. Chị Sáu đã có nhiều chiến công hiển hách. Năm 1948, chị được tổ chức phân công đánh phá buổi lễ mít tinh mừng ngày Quốc khánh nước Pháp 14/7/1948. Chị tung lựu đạn vào khán đài có tính trưởng Lê Thành Trường để giải tán buổi lễ. Chiến công này tạo cho chị nhiều cơ hội lập công mới. Chị được Đảng giao cho nhiệm vụ trừ gian diệt tề. Tháng 2 năm 1950, trong một lần làm nhiệm vụ, không may chị sa vào tay quân thù. Giặc dùng đủ mọi cực hình tra tấn chị nhưng chị không khuất phục và không khai báo điều gì. Địch đày chị ra Côn Đảo. Bảy giờ sáng ngày 23/1/1952, chúng xử tử chị, khi ấy chị mới tròn mười chín tuổi. Ngày 3/6/1993, chị Võ Thị Sáu được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân.
Tự đánh giá trang 62
A. Đọc và làm bài tập
Chiếc võng của bố
Hôm ở chiến trường về
Bố cho em chiếc võng
Võng xanh màu lá cây
Dập dình như cảnh sống.
Em nằm trên chiếc võng
Em như tay bố nâng
Đung đưa chiếc võng kể
Chuyện đêm bố vượt rừng
Em thấy cả trời sao
Xuyên qua từng kẽ lá
Em thấy cơn mưa rào
Ướt tiếng cười của bố.
Trăng treo ngoài cửa sổ
Có phải trăng Trường Sơn
Võng mang hơi ấm bố
Ru đời em lớn khôn.
Phan Thế Cải
Câu 1 trang 62 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Bạn nhỏ cảm nhận được những gì khi nằm trên chiếc võng bố cho? Tìm các ý đúng:
a, Cảm thấy chiếc võng dập dình như sóng
b, Cảm thấy chiếc võng cong như vầng trăng
c, Cảm thấy chiếc võng êm như tay bố nâng
d, Cảm thấy chiếc võng mang hơi ấm và những kỉ niệm của bố ở chiến trường.
Trả lời:
c, Cảm thấy chiếc võng êm như tay bố nâng
d, Cảm thấy chiếc võng mang hơi ấm và những kỉ niệm của bố ở chiến trường.
Câu 2 trang 62 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Chiếc võng gắn với những kỉ niệm nào của bố? Tìm các ý đúng:
a, Chiếc võng êm như tay bố nâng
b, Chiếc võng gắn với những đêm bố vượt rừng
c, Chiếc võng gắn với những cơn mưa rào bố trải qua
d, Chiếc võng gắn với những đêm trăng ở Trường Sơn.
Trả lời:
b, Chiếc võng gắn với những đêm bố vượt rừng
c, Chiếc võng gắn với những cơn mưa rào bố trải qua
d, Chiếc võng gắn với những đêm trăng ở Trường Sơn.
Câu 3 trang 62 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Theo em, vì sao bạn nhỏ biết được những kỉ niệm ấy? Tìm ý đúng:
a, Vì bạn nhỏ được bố kể cho nghe
b, Vì bạn nhỏ được chiếc võng kể cho nghe
c, Vì bạn nhỏ được những cơn mưa rào kể cho nghe
d, Vì bạn nhỏ được vầng trăng Trường Sơn kể cho nghe.
Trả lời:
a, Vì bạn nhỏ được bố kể cho nghe
Câu 4 trang 62 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Tìm trạng ngữ trong câu sau:
Hôm ở chiến trường về, bố cho em một chiếc võng màu xanh lá cây.
Trả lời:
Trạng ngữ là: Hôm ở chiến trường về
Câu 5 trang 62 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Đóng vai trò bạn nhỏ, viết một đoạn văn nói về cảm xúc của em khi nằm trên chiếc võng của bố cho.
Trả lời:
Khi nằm trên chiếc võng đó, em cảm nhận được những gian khổ mà bố phải trải qua trên chiến trường. Chiếc võng là nhân chứng cho những ngày chiến đấu vất vả, hiểm nguy của bố. Từ những giấc ngủ êm đềm trên cánh võng, những nỗi gian lao của bố được hiện lên từ đó mà em ý thức được đầy đủ hơn công lao của những người như bố và em càng biết trân trọng hòa bình hơn.
B, Tự nhận xét
1. Em đạt yêu cầu ở mức nào?
Trả lời :
Em tự đánh giá mức độ đạt yêu cầu.
2. Em cần cố gắng thêm về mặt nào?
Trả lời :
Ghi ra điều em cần cố gắng. Ví dụ : kĩ năng viết đoạn văn.
Xem thêm các bài giải SGK Tiếng Việt lớp 4 Cánh diều hay, chi tiết khác:
Bài 13: Niềm vui lao động
Bài 14: Bài ca giữ nước
Bài 15: Ôn tập giữa học kì 2
Bài 16: Tuổi nhỏ chí lớn
Bài 17: Khám phá thế giới