Mắc mưu Thị Hến – Ngữ văn lớp 10
1. Nội dung văn bản
LỚP 19 […..]
NGHÊU: Trời tăm tối đi hầu bổ ngửa,
Cây bụi bờ rờ chẳng ra đường.
(Này! Này! Thím ơi! Mỗ đã sang. Mở cửa mình vào với!)
THỊ HÊN: Chào thầy mới tới,
Trà nước vội vàng.
Đành lòng đây đó giao duyên,
(Nhưng) Sợ nỗi thế gian đàm tiếu (thôi).
NGHÊU: Vốn đà trước liệu, Lựa phải sau lo.
Kệ kinh chuông mõ trả cho chùa,
Cảy, cấy, đâm, xay đành phận mỗ.
(Này này!) Khuyên cùng với đó,
Chớ khá phụ đây.
Tuy làm vầy cũng tiếng ông thầy,
Ở như vậy uổng tài bà goá.
(Tiếng Đề Hầu kêu cửa)
THỊ HỂN: (Ủa!) Tiếng ai kêu chỉ lạ?
Hay thầy Lại tới đây?
(Này! Này! Mô Phật!)
Đi ra kẻo tội với thầy,
Ở đó ắt tại trước mắt! (Chớ chẳng chơi đâu.)
NGHÊU: (Trời trời!)
Lão Để lại làm chi quá ngặt?
Khiến thầy tu chạy đã hầu điên. (Thím ơi! Thím)
Trốn chỗ nào khác chỉ cho min
(Chớ) Ra cửa có thầy Đề đứng đó!
THỊ HẾN: Dưới phản ngựa thầy mau xuống đó.
(Để tôi) Ra ngõ mời người đặng vào đây.
Dầu chuyện chỉ chịu khó một giây.
(Để) Người về đã, sẽ vầy( hai mặt.
(Nghêu chui xuống gầm phản, Đề Hầu vào)
Lại nói: (Thưa thầy!)
Nghe kêu lật đật,
Mở cửa vội vàng, Thỉnh lại gia trang
Sẽ bày tình tự.
ĐÈ HẦU: Ơn mỗ cứu cho bữa trước,
Nay nường còn nhớ chưa quên?
Sao đã cùng ông Huyện kết duyên,
Mà vội phụ thầy Để tình ngãi (hử)?
THỊ HÊN: Xin thầy hãy nghĩ lại,
Quan Huyện dạy, (tôi) phải vâng.
Đành đôi ta là cái duyên hằng
(Thế mà) Không nghe đó, sao cho yên việc (a thưa thầy?)
ĐÈ HẦU: (Phải lắm! Thế mới biết)
Đèn không khêu không tỏ,
Chuông không đánh không kêu. (Ta nói thiệt)
Đó không thương đây cũng quyết liều, (
Chừ Duyên đã khẳn nường tua giữ dạ.
THỊ HÉN: Ân ái việc còn thong thả,
Rượu trà xin hãy vui chơi!
Chẳng mấy khi đặng hiệp một nơi,
Bây giờ đã gặp nhau hai mặt.
(Chừ có việc này)
Tôi xin hỏi thiệt, thầy khá tỏ bày!
Thầy hằng xem luật lệ xưa nay,
Tu (mà) phá giới, tội chi khinh trọng (thưa thầy?)
ĐÈ HẦU: Lỗ tai nghe quá chướng,
Trong luật lệ rất to,
Hễ phá giới tức hành trảm quyết!
(Huyện Trìa tới)
HUYỆN TRÌA: (Nói ngoài cửa)
Viên ngoại diễu văn tế thuyết,
Môn tiền hữu ngã quan nhơn
Mở cửa ra! Mau tiếp đại tân!
Ở mụ! Kíp kíp ra mời quan Huyện (nào!)
ĐỀ HẦU:
(Chui chao!)
Văn ngôn sắc biến! Sắc biển!
Thính thuyết hồn kinh! Hồn kinh
Nếu mà ông Huyện tri tình,
Chắc hẳn thầy Đề mang khổ!
(Đề Hầu trốn, ông Huyện vào)
HUYỆN TRÌA: Việc thuế má án từ quá gấp,
Đêm tối tăm đảng xá (lại) khó đi.
Tưởng mụ đà tới lúc ngủ khì,
Làm mỗ chạy ướt hầu bổ sấp.
Khi sớm, tối đợi mình lâu lắm,
Từ rày xin tới mụ cho liên,
Gẫm đà phải nợ phải duyên,
Thôi chớ làm hờn, làm giận (nữa mà!)
THỊ HÊN: Nghĩ mà tủi phận,
Đâu dám trách ai,
(Nhưng tôi nghĩ lại như ông)
Vợ còn, con sẵn, thiếu chi,
(Mà buộc tôi không đặng?)
Trai quá gái không thường lệ,
(Tôi cũng) Cam phận thiếp muối trường cơm tẻ,
(Nhưng mà tôi)
E chánh thê cả tiếng nhiều lời (đó thôi!)
(Cho nên tôi)
Lánh một xó, lọ một nơi,
Khó trối thây, giàu ai chẳng luy!
HUYỆN TRÌA: (Ui chao! Chử!)
Ta nghỉ ngơi kéo mệt,
Nói dài lắm cũng buồn.
Khuyên khuyên xin chớ làm tuồng,
Bớt bớt xin đừng nói bơm!
THỊ HẾN: Sợ gan ruột đàn ông nhiều lớp,
Việc nợ duyên dễ thiếp mấy nơi?
Rượu trà hãy xin mời,
Ái ân rồi có đó.
(Bây giờ tôi xin nhờ quan)
Vốn tôi chưa rõ,
Xin hỏi một lời:
Người từng xem luật lệ nơi nơi,
(Là) Có một việc ở đời lạ lạ.
Rầy có chú thầy tu rất chạ),
Hay tới nhà mà ve bà goá,
Đã xuất gia, phá giới làm vợ),
Thời luật pháp xử chỉ cho rõ?
HUYỆN TRÌA: (Uẩy!)
Nói làm chỉ việc rối, Ai có tiếc làm chi.
Phàm tu hành mà đã xuất gia,
Có phá giới đánh đòn phát lạc!
NGHÊU: (Từ gầm giường bò ra)
Tâm khoái lạc! Tâm khoái lạc!
Thiện xử phân! Thiện xử phân!
(Bẩm quan lớn, lời quan dạy rất minh, chớ thầy Đề ngồi trong thúng mơ nói mới ức chớ! Bẩm quan lớn!)
Chơn vi phụ mẫu chi dân!
(Chứ thầy Đề)
Chỉ thị dâm ô chỉ loại
Như thầy tu phá giới,
Thời bất quá đánh đòn.
Còn thầy Lại phạm gian,
Thật ắt là tội chết.
ĐỀ HẦU: (Lồm cồm bò ra)
Đầu đuôi tại mụ Hến,
Mưu mẹo bởi lão thầy tu
Rày quan Huyện trớ trêu
Mắc đàn bà quá tội. T
ôi cam chịu lỗi,
Ai biết mà chê!
Trong nha môn cả Huyện đến Đề,
Còn tạo lệ không mời luôn thể!
HUYỆN TRÌA: Thầy Lại làm nên quá tệ,
Như nhà sư bắt chước cố trêu.
Mắc cỡ lêu lêu!
Lêu lêu mắc cỡ!
Rất nên quái gở,
Làm việc lăng nhăng!
Hễ miếng to bay quyết kiếm ăn,
Còn đồ vặt bay làm sạch trụi.
Thầy tu khá lui về cho khỏi,
Đề lại mau cõng mỗ về nhà.
Dằn lòng thôi chớ ngứa nghề,
Giữ dạ dừng tham của lạ.
(Hạ)
THỊ HẾN: Tâm khoái dã!
Tâm khoái dã! Kế hoạn nhiên! Kế hoan nhiên!
Thế thầy tu hết tới ngõ nói điên,
Rày quan Huyện hết đến nhà làm bậy.
Giữ tiết hạnh một niềm cho toại,
Nỗi nhơn duyên đôi chữ không màng.
2. Thể loại
– Tuồng (hay còn gọi là luông tuồng, hát bộ, hát bội) là một loại hình nhạc kịch thịnh hành tại Việt Nam
– Tuồng mang theo âm hưởng hùng tráng với những tấm gương nhân vật tận trung báo quốc, xả thân vì đại nghĩa, những bài học về lẽ ứng xử của con người giữa cái chung và cái riêng, giữa gia đình và Tổ quốc, chất bi hùng là một đặc trưng thẩm mỹ của nghệ thuật tuồng.
– Có thể nói tuồng là sân khấu của những người anh hùng… Loại hình này khác biệt với cải lương xã hội, cải lương Hồ Quảng (cải lương tuồng cổ), thoại kịch, opera,… là những hình thức diễn xướng sân khấu mới ra đời trễ và được chuộng hơn.
3. Xuất xứ
+ Văn bản Mắc mưu thị Hến được trích từ vở tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến
+ Tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến
– Nghêu, Sò, Ốc, Hến thuộc loại tuồng đồ (tuồng hài), châm biếm sâu sắc nhiều thói hư tật xấu trong xã hội và lật tẩy bộ mặt xấu xa của một số kẻ thuộc bộ máy cai trị ở địa phương trong xã hội xưa.
– Đây là tác phẩm tiêu biểu trong di sản tuồng truyền thống và là vở tuồng đồ thuộc loại đặc sắc nhất
– Tích tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến có một số dị bản, kể khác nhau ở một vài chỗ, trong đó có tình tiết đánh ghen cuối vở
– Văn bản Nghêu, Sò, Ốc, Hến do Hoàng Châu Ký chỉnh lí (1957) gồm có tất cả ba hồi.
4. Nội dung chính
Thị Hến được cả Đế Hầu và Huyện Trìa cùng mê muội. Bên cạnh đó còn có Nghêu là một thầy tu phá giới, sa đọa đến tán tỉnh Thị Hến. Thị Hến hẹn Nghêu tối đến nhà, nhưng lại cho mời cả Huyện Trìa và Đế Hầu đến. Ở nhà Thị Hến, khi Nghêu đang tán tỉnh thì Đế Hầu vào gõ cửa, Nghêu phải chui vào gầm phản. Huyện Trìa tới, Đế Hầu vội tìm chỗ trốn. Thị Hến dùng mưu để cả ba cùng xuất đầu lộ diện và bị một phen bẽ mặt.
5. Giá trị nội dung của Mắc mưu Thị Hến
– Đoạn trích cho thấy hiện thực về những kẻ có tâm địa dung tục, xấu xa như Nghêu, Đế Hầu và Huyện Trìa
– Lên án và tạo ra tiếng cười sâu sắc, chua cay trong tác phẩm
– Đưa ra bài học còn có ý nghĩa tới ngày nay, cảnh tỉnh con người không nên tham lam, mê muội, sa đọa vào những thói hư tật xấu
– Thể hiện sự phê phán, lên án và cười chê với những thói dung tục, xấu xa, đam mê tửu sắc của con người
6. Giá trị nghệ thuật của Mắc mưu Thị Hến
– Ngôn từ dân gian mộc mạc, dễ hiểu
– Nghệ thuật kể chuyện xen lẫn chất trào phúng, hóm hỉnh
Xem thêm các bài tóm tắt tác giả, tác phẩm Ngữ văn lớp 10 Cánh diều hay, chi tiết khác:
Tác giả – tác phẩm: Xúy Vân giả dại (Trích chèo Kim Nhan)
Tác giả – tác phẩm: Mắc mưu Thị Hến (Trích tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến)
Tác giả – tác phẩm: Thị Mầu lên chùa (Trích chèo Quan Âm Thị Kính)
Tác giả – tác phẩm: Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội: một hằng số văn hóa Việt Nam
Tác giả – tác phẩm: Lễ hội Đền Hùng