Đề bài: Viết một bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện
I. Nghị luận về Làng
Nghị luận về Làng (mẫu 1)
Nếu như trước Cách mạng Tháng Tám, Ngô Tất Tố mang tới một chị Dậu với sức sống mãnh liệt của người nông dân, Nam Cao mang tới một Lão Hạc đầy lòng tự trọng và tình yêu thương con vô bờ bến,… thì sau Cách mạng Tháng Tám, Kim Lân – nhà văn nông dân – mang tới cho bạn đọc hình ảnh người nông dân thời kì đổi mới. Đó chính là nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” với tình yêu làng quê và lòng yêu nước sâu đậm, tha thiết.
Sinh ra và lớn lên nơi làng quê Việt Nam, giữa những người nông dân chất phác, nhà văn Kim Lân đã sớm gắn bó và am hiểu sâu sắc về cuộc sống ở nông thôn, sáng tác nhiều tác phẩm về đề tài này. Trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, khi người dân miền Bắc được lệnh tản cư, ông lại một lần nữa khắc họa hình ảnh người nông dân trong truyện ngắn “Làng”, không phải trong những vấn đề thường nhật, mà về tình yêu làng quê và đất nước của những con người chân lấm tay bùn ấy. Tác phẩm được đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn nghệ năm 1948, đánh dấu bước chuyển biến tích cực trong hình tượng người nông dân và nhân thức của họ, đặc biệt qua nhân vật ông Hai.
Nét tính cách đầu tiên và dễ nhận thấy nhất ở ông Hai là tình yêu tha thiết đối với làng ông. Đối với người nông dân, làng không chỉ là một đơn vị hành chính, địa lí. Ở đó chứa đựng cuộc sống của họ, tất cả những gì gần gũi và thân thuộc với họ. Làng chính là quê hương, là cuộc đời họ. Ông Hai cũng vậy, ông có tính hay khoe làng với tất cả niềm hãnh diện. “Ông nói về cái làng ấy một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai mắt ông sáng hẳn lên, khuôn mặt biến chuyển hoạt động.” Tình yêu làng đã biến ông Hai thành một con người hoàn toàn khác so với một ông Hai bị gò bó, tù túng trong căn bếp tản cư. Một nguồn sinh lực mới như dồi dào trong ông lúc đó. Tối này đến tối khác, ông nói đi nói lại về cái làng của ông.
Kim Lân điểm nhịp câu chuyện bằng những lời trách móc ông hàng xóm nhãng ý không nghe chuyện, nhưng kỳ thực là để cho ta thấy rằng ông Hai không thực sự cần bác Thứ nghe, ông nói cho chính mình, nói để cho sướng miệng và cũng để thỏa nỗi nhớ làng. “Ông lại nghĩ về cái làng của ông, lại nghĩ đến những ngày cùng làm việc với anh em. […] Ông lại muốn về làng, lại muốn được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá.” Những ký ức về làng xưa, xóm cũ trở thành niềm an ủi, động viên ông Hai mỗi khi chán nản. Chỉ cần được ở lại làng, cùng chiến đấu với anh em thì như có một luồng sinh lực mới chảy dồi dào trong ông, và dù có gian khổ, khó nhọc, nguy hiểm đến bao nhiêu ông cũng chịu được. Hình ảnh đó hoàn toàn trái ngược với ông Hai lúc nào cũng buồn chán, bức bối, không biết làm gì trong căn bếp tản cư. Thế nhưng đó cũng chỉ là hồi ức, một hồi ức tươi vui và đầy tự hào đến nỗi mỗi khi nhớ lại, trong ông lại trào dâng một nỗi nhớ khôn nguôi : “Ông Hai nhớ cái làng, nhớ cái làng quá.” Với ông, ngôi làng của ông vốn đã là một điều gì đó vô cùng thiêng liêng và đẹp đẽ. Nay ở trong căn bếp tản cư chật hẹp, cái làng ấy lại càng đẹp hơn, trở thành một niềm mong ước, khao khát mãnh liệt. Điều đó hoàn toàn không phải phóng đại. Tâm sự của ông Hai là tâm sự của một người gắn bó với làng tha thiết, yêu làng bằng một niềm tự hào chân chính.
Tình yêu làng của ông Hai được thể hiện nổi bật và đậm nét nhất khi ông nghe tin làng ông theo Tây. Như sét đánh ngang tai, ông từ chối tin vào điều đó. “Cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng chừng như không thở được. Một lúc sau ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ.” Nếu như tin dữ ấy là cái làng đẹp đẽ của ông bị đốt trụi, nhà cửa, ruộng vườn của ông bị cướp mất thì có lẽ ông cũng không đau khổ bằng tin làng mình theo Tây. Tội nghiệp ông lão vui tính, xởi lởi giờ đây phải “cúi gằm mặt đi thẳng”, “nước mắt ông cứ dàn ra”. Giá ông không quá yêu làng, không quá tự hào về làng thì ông đã không thấy tủi nhục đến thế. Mấy chữ “cả làng chúng nó Việt gian theo Tây” như găm vào trái tim ông, vào niềm tự hào về cái làng mà ông yêu vô cùng. Tất cả những gì ông trân trọng giữ gìn trong tim giờ đây như đều sụp đổ tan tành.
Ông không chấp nhận được sự thật ấy và đấu tranh nội tâm dữ dội. Lúc đầu là nghi ngại (“Nhưng sao lại nảy ra cái tin như vậy được ?“), nhưng sau đó là đau đớn khi được biết những bằng chứng rõ ràng (“Mà thằng chánh Bệu thì đích là người làng không sai rồi“). Phải thừa nhận cái tin đó, không thể nào tả được nỗi đau của ông lúc ấy. “Chao ôi ! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian !” Có lẽ trong đời mình, ông Hai chưa từng chịu đựng hay thậm chí tưởng tượng được một nỗi đau, nỗi nhục như thế. Những tiếng ấy như thốt lên từ trái tim bị tổn thương, từ niềm tự hào bị chà đạp của ông, khiến người đọc cũng như cảm nhận được nỗi xót xa, tủi nhục của ông lúc ấy. Mà ông Hai đâu chỉ đau cho mình, đau cho làng, mà ông còn đau cho những người đồng hương, đồng cảnh ngộ. “Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa ?” Có thể những con người ấy trước kia có hiềm khích với ông, nhưng trước nỗi đau, nỗi nhục quá lớn này, tình yêu làng trỗi lên thật mạnh mẽ và đánh thức tình đồng hương trong ông. Kim Lân đã rất tài tình khi sử dụng hàng loạt câu cảm, câu hỏi liên tiếp trong nghệ thuật độc thoại nội tâm để lột tả sự đau khổ, xót xa, uất ức mà ông Hai phải chịu đựng. Lúc này đây, làng không chỉ là nơi chôn rau cắt rốn nữa, mà là một cái gì đó lớn lao hơn, là lòng tự trọng, là danh dự.
Không chỉ thế, tình yêu làng còn trở thành một nỗi ám ảnh day dứt trong ông, buộc ông phải lựa chọn giữa làng và nước. Nếu lúc trước ông tự hào, ông thao thao bất tuyệt về làng mình bao nhiêu thì bây giờ ông xấu hổ, trốn tránh bất nhiêu. Cái tin đồn quái ác kia trở thành một nỗi ám ảnh, một nỗi sợ vô hình luôn đè nặng lên tâm trí ông. “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông… là ông lủi ra một góc nhà, nín thít.
Thôi lại chuyện ấy rồi !” Lẽ thường tình, khi người ta suy nghĩ quá nhiều về một điều gì đó, lúc nào ta cũng có cảm tưởng những người khác cũng như vậy. Thế thì nỗi ám ảnh và lo sợ của ông Hai phải lớn đến chừng nào để ông bị dằn vặt tới vậy ! Lòng yêu làng của ông phải lớn biết chừng nào ! Kim Lân đã diễn tả rất cụ thể và sâu sắc tâm trạng nặng nề ấy, vì bản thân tác giả cũng từng gặp hoàn cảnh tương tự. Ông Hai đã trải qua những giờ phút không thể đau đớn và tủi hổ hơn khi bị mụ chủ nhà nói móc nói máy để đuổi khéo. Người đọc như cảm nhận được từng lời từng chữ của mụ như xoáy sâu vào tình yêu làng vốn đã quá tổn thương của ông. Dù đã dứt khoát đi theo kháng chiến, ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm sâu đậm với làng quê, và vì thế mà ông càng đau xót, tủi hổ hơn.
Bên cạnh tình yêu làng, nhân vật ông Hai còn ghi dấu trong mắt người đọc bằng lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến. Ông luôn theo sát tin tức kháng chiến và tự hào về những chiến công mà nhân dân ta đã lập nên. “Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá !” Nhưng đến khi phải lựa chọn giữa làng và nước, tình yêu ấy mới bộc lộ rõ rệt. Dù bị tin đồn làng mình theo Tây dồn vào “tuyệt đường sinh sống”, ông vẫn nhất quyết không trở về làng. Đến đây, ta mới hiểu rõ về con người hay chuyện tưởng chừng rất đơn giản, bộc trực kia. Tình yêu làng giờ đây đã trở thành tình yêu có ý thức, hòa nhập và lòng yêu nước. “Về làm gì cái làng ấy nữa. Về làng là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ.” Nhớ lại những tháng ngày đen tối bị đàn áp xưa kia, ông đã có quyết định rõ ràng, đúng đắn. Là người nông dân chân lấm tay bùn nhưng ông Hai có nhân thức cách mạng rõ ràng : “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.” Nhận thức rất mới này là một nét đặc biệt trong tính cách của ông Hai, đánh dấu sự thay đổi của người nông dân sau Cách mạng Tháng Tám.
Ông luôn luôn muốn được giãi bày nỗi lòng ấy của mình. Tuy nói chuyện với đứa con, nhưng thực chất ông đang mượn lời đứa trẻ để bày tỏ tâm sự. Những gì đứa trẻ nói chính là những gì đang dâng trào trong lòng ông mà không nói ra được. “Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ.” Ông Hai nói với đứa con như thể nói với anh em đồng chí, để minh oan cho tấm lòng thành thật của mình, để nỗi khổ tâm trong lòng như vơi đi được đôi phần. Lòng yêu nước của ông thật giản dị nhưng vô cùng chân thành, sâu sắc và cảm động. Chính điều ấy đã giúp ông chịu đựng được tin đồn quái ác về làng mình, vì ông có niềm tin vào cách mạng, vào kháng chiến. Từ đây, ông Hai nói riêng hay người nông dân nói chung, đã nhìn rộng hơn, xa hơn lũy tre làng. Không chỉ yêu làng, trong ông còn có một tình yêu lớn gấp nhiều lần – lòng yêu nước.
Đến khi tin làng chợ Dầu theo giặc được cải chính, tình yêu làng, yêu nước của ông Hai mới được vẽ lên hoàn chỉnh. Ông Hai như sống lại. “Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên.” Một lần nữa, tình yêu làng, yêu nước của ông được thể hiện một cách chân thực, cảm động. Nguồn sinh lực ngày nào lại trở về trong ông. Ông Hai lại là ông Hai xưa. Ông lại nói về làng mình, về “Tây nó đốt nhà tôi rồi, đốt nhẵn !” Niềm vui sướng của ông được thể hiện thật hồn nhiên, chân thật và rất mãnh liệt. Có lẽ không ai trên đời lại đi khoe, đi mừng việc nhà mình bị đốt như thế. Nhưng với ông Hai, điều đó đâu có là gì so với niềm vui khi thanh danh của làng được rửa. Vì sự mất mát ấy cũng là sự hồi sinh của một làng Chợ Dầu mà ông hằng yêu và xứng đáng với tình yêu ấy : làng Chợ Dầu kháng chiến. Tình yêu làng là cơ sở, là biểu hiện hùng hồn nhất của tình yêu nước trong ông Hai. Quả đúng như nhà văn I-li-a Ê-ren-bua đã từng nói : “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê làm nên lòng yêu tổ quốc.” Nếu so với lão Hạc của Nam Cao hay chị Dậu của Ngô Tất Tố trước Cách mạng tháng Tám – những người nông dân cả cuộc đời đầu tắt mặt tối trong ruộng vườn thì nhân vật ông Hai đã có nhận thức rõ ràng về cách mạng, về kháng chiến. Ông đã nhận ra rằng: Đất nước còn thì làng còn, đất nước mất thì làng cũng mất. Đây không chỉ là sự thay đổi trong suy nghĩ người nông dân, mà còn là suy nghĩ của mỗi người dân Việt Nam thời điểm đó. Họ sẵn sàng hy sinh những cái riêng, những cái nhỏ vì sự nghiệp chung, vì cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Họ không hề quên đi cội nguồn của mình mà gìn giữ nơi ấy ở trong tim, biến thành động lực chiến đấu để giải phóng đất nước, giải phóng quê hương.
Truyện ngắn “Làng” đã xây dựng thành công nhân vật ông Hai, đặc biệt qua tình huống làng Chợ Dầu bị đồn là theo Tây. Nguyễn Minh Châu từng nói : “Tình huống là một loại sự kiện đặc biệt của đời sống, được sáng tạo ra theo hướng lạ hóa. Tại đó, vẻ đẹp nhân vật hiên ra sắc nét, ý nghĩa tư tưởng phát lộ toàn diện.” Kim Lân đã sáng tạo được một tình huống truyện có tính căng thẳng để thử thách nhân vật. Nó đã cho ta thấy chiều sâu của nhân vật ông Hai, những nét tính cách, những chuyển biến trong nhận thức và tính cảm của ông, và hơn hết là tình yêu làng, yêu nước tha thiết. Nhà văn cũng vô cùng thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, khi thì miêu tả cử chỉ hành động, khi thì độc thoại nội tâm, độc thoại, đối thoại để lột tả tính cách nhân vật. Ngôn ngữ kể chuyện rất linh hoạt, tự nhiên, lúc dềnh dàng, lúc đột ngột tùy theo diễn biến. Bên cạnh đó, tác giả vốn am hiểu cuộc sống nông thôn nên ngôn ngữ của ông Hai là khẩu ngữ, rất bình dị và gần gũi, đậm chất nông dân. Với nhân vật ông Hai, Kim Lân quả thực rất xứng đáng là một cây bút “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”.
Nguyễn Đình Thi từng viết rằng: “Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của mình góp vào đời sống chung quanh.” Truyện ngắn “Làng” đã được viết nên từ những điều nhà văn từng trải nghiệm, khắc họa một cách chân thực nhất những tháng ngày đi tản cư của nhân dân miền Bắc trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, cũng như những chuyển biến trong nhận thức và tình cảm của họ.. Thông qua nghệ thuật xây dựng tình huống truyện và miêu tả tâm lí, ngôn ngữ nhân vật, Kim Lân đã mang đến cho bạn đọc nhân vật ông Hai với tình yêu làng quê và lòng yêu nước sâu đậm, thiết tha.
Nghị luận về Làng (mẫu 2)
Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài sinh năm 1921, quê ở Hà Bắc. Là nhà văn chuyên viết truyện ngắn, ông đã có sáng tác đăng báo từ trước cách mạng tháng 8. Là nhà văn am hiểu sâu sắc, gắn bó với nông dân và nông thôn, Kim Lân hầu như chỉ viết về sinh hoạt nông thôn và cảnh ngộ của người nông dân. Truyện ngắn “Làng” là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân được viết trong thời kì đầu của cuộc khánh chiến chống Pháp (1948). Đây là một tác phẩm độc đáo viết về lòng yêu nước của ông Hai Tu, lòng yêu nước này xuất phát từ tình yêu quê hương, yêu làng sâu sắc của ông. Tình cảm và ý nghĩa này đã trở thành phổ biến ở mỗi người nông dân VN ta trong những ngày đầu chống Pháp.
Ông Hai yêu cái làng chợ Dầu của ông thật đậm đà, tha thiết, yêu đến nỗi đi đâu ông cũng khoe về cái làng của ông. Kể về làng chợ Dầu, ông nói một cách say sưa mà không cần biết người nghe có chú ý hay không. Ông khoe làng ông có nhà ngói san sát, sầm uất, đường trong làng lát toàn bằng đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối xóm bùn không dính đến gót chân. Tháng 5 ngày 10 phơi rơm và thóc tốt thượng hạng, không có lấy một hạt thóc đất. Ông còn tự hào về cái sinh phần của tổng đốc làng ông.
Ông tự hào, vinh dự vì làng mình có cái nét độc đáo, có bề dày lịch sử. Nhưng khi cách mạng thành công, nó đã giúp ông hiểu được sự sai lầm của mình. Và từ đó, mỗi khi khoe về làng là ông khoe về những ngày khởi nghĩa dồn dập, những buổi tập quân sự có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập. Ông còn khoe cả những hố, những ụ, những hào,… lắm công trình không để đâu hết.
Chính cái tình huống ngặt nghèo khi giặc tràn vào làng, ông buộc phải xa làng. Xa làng ông mang theo tất cả nỗi niền thương nhớ. Vì vậy, nên lúc tản cư, ông khổ tâm day dứt khôn nguôi. Quả thật, cuộc đời và số phận của ông Hai thật sự gắn bó với buồn vui của làng. Tự hào và yêu nơi ” chôn rau cắt rốn” của mình trở thành một truyền thống và tâm lý chung của mọi người nông dân thời bấy giờ. Có thể tình yêu nước của họ bắt nguồn từ cái đơn giản, nhỏ : cây đa, giếng nướ, sân đình… và nâng cao lên đó chính là : tình yêu đất nước. Tới đây, là chợt nhớ đến câu nói bất hủ của nhà văn I-li-a Ê-ren-bua : “lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ Quốc “. Những ngày ở làng Thắng, ông Hai suốt ngày ra trụ sở để nghe ngóng tin tức về làng chợ Dầu và ông nghe tin cả làng ông Việt gian theo tây.
Nghị luận về Làng (mẫu 3)
Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn cua nền văn học hiện đại Việt Nam. Với vốn am hiểu sâu sắc và gắn bó với nông thôn và người nông dân nên truyện của ông thường xoay quanh những nếp sinh hoạt, cảnh ngộ, phong tục truyền thống của người nông dân Bắc Bộ. Nguyên Hồng nhận xét: Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với “đất” với “người” với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn. Truyện ngắn “Làng” (1948) là một minh chứng tiêu biểu cho lời nhận xét đó của Nguyên Hồng. Bằng việc khai thác đề tài tình yêu làng, lòng yêu nước, tinh thần kháng chiến của người nông dân phải rời làng đi tản cư qua nhân vật ông Hai, Kim Lân đã xây dựng thành công tình huống truyện độc đáo, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sinh động bằng một thứ ngôn ngữ mang đậm chất khẩu ngữ và lời ăn tiếng nói hằng ngày của người nông dân.
Trước hết, truyện ngắn “Làng” đã được Kim Lân xây dựng trên tình huống gay cấn để bộc lộ tình yêu làng, tình yêu đất nước sâu sắc ở nhân vật ông Hai. Đó là tin làng ông theo giặc lập tề mà chính ông nghe được từ miệng của những người tản cư dưới xuôi lên. Tình huống ấy đã đẩy câu chuyện vào chỗ thắt nút khi mà ông Hai – một con người vốn yêu làng, luôn khoe và hãnh diện về làng thì nay lại hay tin là theo giặc. Vì thế ông đau đớn, xót xa và cảm thấy tủi hổ, bẽ bàng. Trong thế giới nội tâm nhân vật có sự đấu tranh xung đột giữa tình yêu làng và tình yêu nước mà tình cảm nào cũng mãnh liệt, song tình yêu nước, tinh thần kháng chiến rộng lớn, bao trùm lên tình yêu làng. Nhưng cuối cùng, cũng từ tình huống ấy đã mở nút cho câu chuyện khi mà ông nhận được tin cải chính về làng. Tình huống này đã khẳng định ông Hai và làng chợ Dầu luôn trung thành tuyệt đối với kháng chiến với cụ Hồ, với dân tộc.
Cũng qua tình huống truyện, người đọc còn nhận ra tài năng khắc họa, miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo của nhà văn Kim Lân qua nhân vật ông Hai. Có thể nói, dưới tác động của tình huống, sự việc khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, tâm lý nhân vật ông Hai đã có những diễn biến phức tạp và nhà văn đã trực tiếp nhập vai vào nhân vật để nói bằng tiếng nói nhân vật, mô tả sự giằng xé trong thế giới nội tâm với những mâu thuẫn, xung đột gay gắt, dữ dội. Cũng như biết bao người dân quê khác, ông Hai gắn bó sâu lặng với nơi chôn rau cắt rốn của mình – làng chợ Dầu. Tình yêu ấy của ông thật đặc biệt, biểu hiện của nét tâm lí đó là luôn tự hào và thích khoe về làng. Nhưng có một sự kiện bất ngờ đã xảy ra với ông, từ phòng thông tin bước ra đang rất phấn khởi, náo nức vì những tin vui của kháng chiến, gặp người tản cư, nghe họ nhắc tới tên làng, ông Hai quay phát lại, lắp bắp hỏi, hi vọng được nghe những tin tốt lành về làng, nào ngờ lại hay tin: cả làng chợ Dầu theo giặc. Trước tin dữ ấy, ông Hai sững sờ chết lặng “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như không thở được”. Từ niềm vui, niềm tin hi vọng, ông Hai rơi xuống vực thẳm đau buồn, xót xa, tuyệt vọng. Ông cố gắng trấn tĩnh bản thân và tìm cách lảng ra về, muốn che giấu đi tâm trạng ấy nhưng nỗi tủi hổ, bẽ bàng, lo lắng khiến ông “cúi gằm mặt mà đi”, còn văng vẳng tiếng chửi “giống Việt gian bán nước”.
Khi về đến nhà, ông Hai nằm vật ra giường, rồi tủi thân khi nhìn đàn con nhỏ: “nước mắt ông lão cứ giàn ra”. Những dòng độc thoại nội tâm trong ông thể hiện nỗi day dứt, đau đớn: “Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?…”. Ông căm giận lũ người theo giặc, phản bội làng nước, ông lão nắm chặt hai tay mà rít lên: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Nhưng sau đó, ông lại cảm thấy “ngờ ngợ” như lời của mình không được đúng lắm. Niềm tin và nỗi thất vọng đang giằng xé trong ông. “Ông kiểm điểm từng người trong óc” thấy họ đều là những người có tinh thần kháng chiến, một sống một chết với giặc, có đời nào lại can tâm làm điều nhục nhã ấy được. Trong hoàn cảnh giặc giã thì tinh thần yêu nước, tinh thần kháng chiến là một thứ tình cảm thiêng liêng, cao đẹp; còn phản bội là điều xấu xa ô nhục nhất. Vì thế từ khi nghe tin làng mình theo giặc, nó đã trở thành nỗi ám ảnh, day dứt trong tâm trí của ông, khiến ông ba bốn hôm nay không dam bước chân ra đến ngoài. Suốt ngày chỉ quanh quẩn ở trong cái gian nhà chật chội ấy mà nghe ngóng binh tình. “Một đám đông túm lại ông cũng để ý, dăm bảy tiếng nói xa xa ông cũng chột dạ”, lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng người ta đang để ý , đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”; cứ thoáng nghe những tiếng Tây, cam nhông , Việt gian là ông lại lủi thủi ra một góc nhà nín thít… “Thôi lại chuyện ấy rồi!”. Ông luôn thu mình lại, cảm thấy xấu hổ, đau xót và dường như cảm thấy chính mình cũng có tội vậy. Ông rời vào tình trạng tuyệt vọng khi mà bà chủ nhà đánh tiếng đuổi gia đình ông đi vì “nghe nói, bảo có lệnh đuổi hết những người làng chợ Dầu khỏi vùng này, không cho ở nữa”. Ông Hai không biết đi đâu, cũng không thể quay lại trở về làng vì về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ, “về làng tức là chụy quay lại làm nô lệ cho thằng Tây”. Trong ông Hai diễn ra cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt và dứt khoát lựa chọn theo cách của mình “Làng thì yêu thật những làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Tình yêu nước đã bao trùm lên tình yêu làng. Song ông không thể vứt bỏ tình yêu làng nên ông Hai càng đau xót, tủi hổ. Trong tâm trạng bị dồn nén, không biết giải tỏa như thế nào, ông Hai chỉ còn biết trút lòng mình với đứa con nhỏ. Cuộc đối thoại giữa ông và đứa con trai đã bộc lộ thật cảm động tấm lòng gắn bó sâu sắc với làng quê, với đất nước và với kháng chiến của ông Hai. Ông nói với con mà như tự nói với chính mình, tự mình oan, tự chiêu tuyết cho mình. Đoạn thoại, vừa chất chứa nỗi đau đớn, xót xa, lại vừa thể hiện tấm lòng thủy chung, son sắt với kháng chiến, với cách mạng, với cụ Hồ.
Có lẽ, nếu không nhận được tin cải chính thì cả đời ông Hai sẽ chết dần, chết mòn trong nỗi đau đớn, tủi hổ, bẽ bàng về cái làng của mình mất. Những sau đó, chính quyền làng ông đã lên cải chính cái tin làng chợ Dầu theo giặc. Nhận được tin, ông Hai như sống lại, niềm vui tràn ngập trong ông: quần áo chỉnh tề, mặt tươi vui, rạng rỡ hẳn lên, mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy, nói bô bô, mua quà cho các con…. Đặc biệt là hành động ông chạy đi khoe với tất cả mọi người cái tin vui ấy. Niềm vui sướng, hạnh phúc dâng trào khiến ông cứ múa tay lên mà khoe. Và lạ thay, câu đầu tiên ông khoe không phải là việc làng ông không theo giặc mà là “Tây nó đốt nhà tôi rồi… đốt nhẵn!”. Với người nông dân, căn nhà là cả cơ nghiệp của họ mà cả đời họ làm lụng vất vả mới có được. Nhưng ông Hai không hề tiếc căn nhà của mình bởi nó là minh chứng khẳng định làng ông không theo giặc và trên hết là nó như là sự “đóng góp” của gia đình ông với kháng chiến. Điều đó, một lần nữa càng khẳng định rõ ràng hơn tình yêu làng, tình yêu nước và sự trung thành với kháng chiến ở ông Hai.
Đến đây, chúng ta thấy được sức sáng tạo độc đáo của Kim Lân trong nghệ thuật tạo tình huống, thực sự gay cấn, kịch tính với những thử thách của nội tâm nhân vật, từ đó bộc lộ chiều sâu đời sống bên trong, tình cảm, tư tưởng của nhân vật. Tác giả đã miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc, tinh tế, rất cụ thể, gợi cảm qua thế giới nội tâm với các ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ. Đặc biệt, nhà văn đã diễn tả rất đúng, rất ấn tượng về sự ám ảnh day dứt trong tâm trạng nhân vật. Điều đó chứng tỏ Kim Lân am hiểu sâu sắc con người và những nét tâm lí vôn có của người nông dân Việt Nam sau lũy tre làng.
Thông qua tác phẩm, người đọc còn nhận ra ngôn ngữ của truyện rất đặc sắc, nhất là ngôn ngữ nhân vật ông Hai. Ngôn ngữ mang đậm chất khẩu ngữ và lời ăn tiếng nói hằng ngày của người nông dân. Lời trần thuật và lời nhân vật có sự thống nhất về sắc thái, giọng điệu do truyện được trần thuật chủ yếu theo điểm nhìn của ông Hai, dù vẫn dùng cách trần thuật ở ngôi thứ ba. Ngôn ngữ nhân vật ông Hai vừa có nét chung của người nông dân, lại vừa mang đậm cá tính của nhân vật, rất sinh động, chân thực, gần gũi.
Tóm lại, “Làng” của Kim Lân là một truyện ngắn đặc sắc, khai thác một tình cảm bao trùm và phổ biến trong con người thời kháng chiến: tình yêu quê hương, đất nước; trong đó, nhân vật ông Hai là nhân vật có tính chất đại diện điển hình cho nét tâm lí, tình cảm đó của người nông dân Việt Nam trong thời kì tiến công cách. mạng. Qua tác phẩm chúng ta thấy được tài năng độc đáo trong nghệ thuật tạo tình huống, xây dựng hình tượng nhân vật có tính chất đại diện điển hình với thế giới nội tâm phong phú, phức tạp, sinh động; ngôn ngữ truyện mộc mạc, giản dị, gần gũi với đời sống, xen lẫn giữa độc thoại và đối thoại đan xen… tất cả đã làm nên sự thành công độc đáo, hấp dẫn cho thiên truyện ngắn.
Nghị luận về Làng (mẫu 4)
Kim Lân là nhà văn hiện đại Việt Nam. Ông có một vốn sống vô cùng sâu sắc về nông thôn Việt Nam. Những thú chơi dân dã mang cốt cách “phong lưu đồng ruộng” như thả diều, chọi gà, nuôi chó săn, thả chim bồ câu, chơi núi non bộ, gánh hát chèo, trẩy hội mùa xuân, v.v… được ông viết rất hay và cho ta nhiều thú vị. Ông là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc mang hương đồng gió nội qua 2 tác phẩm: Con chó xấu xí và Nên vợ nên chồng.
Viết về đề tài nông dân và kháng chiến, truyện Làng của Kim Lân thành công hơn cả. Nhân vật chính của truyện là ông Hai đã để lại trong lòng em nhiều ấn tượng sâu sắc, đẹp đẽ.
Ông Hai là một lão nông, cần cù chất phác, giàu lòng yêu quê hương đất nước. Ông gắn bó với cách mạng, quyết tâm đi theo kháng chiến, trung thành tuyệt đối vào sự lãnh đạo sáng suốt của Cụ Hồ Chí Minh.
Cũng như hàng triệu người nông dân khác, ông Hai là một con người cần cù chất phác rất đáng yêu. Ông hay lam hay làm “ở quê ông làm suốt ngày, không mấy lúc chịu ngơi chân ngơi tay”. Đi cày, đi cuốc, gánh phân, tát nước, đan rổ, đan rá,… ông đều làm khéo, làm giỏi.
Ông Hai đã sống qua hai chế độ, trước kia ông mù chữ, sau nhờ cách mạng mà ông được học “bình dân học vụ”, biết đánh vần. Kim Lân đã kể rất hay về tình yêu làng của ông Hai. “Làng ta phong cảnh hữu tình”… không yêu làng sao được? Cái làng Chợ Dầu vốn là nơi chôn nhau cắt rốn của ông, “nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh”, “đường trong làng toàn lát đá xanh, trời mưa trời gió …bùn không dính đến gót chân”…
Trước kia, ông Hai rất lấy làm tự hào về cái sinh phần quan tổng đốc làng ông. Đi đâu ông cũng khoe, gặp ai ông cũng khoe “cái dinh cơ cụ thượng làng tôi có lăm lắm là của. Vườn hoa cây cảnh nom như động ấy…”. Ông yêu làng Chợ Dầu với tất cả sự hồn nhiên, ngây thơ của người ít học. Ông đã mang thương tật trên mình khi bị bắt làm phu xây cái lăng ấy! Đáng lẽ ông không nên khoe, không nên “hả hê cả lòng”. Nỗi đau, nỗi nhục của một đời người nói làm gì nữa cho thêm phần nhục nhã? Nhắc lại chuyện xưa, cũ ấy của ông Hai, Kim Lân đã viết với một giọng văn châm biếm nhẹ nhàng. Từ ngày cách mạng thành công, ông Hai vẫn yêu làng, yêu với tất cả tình cảm trong sáng, chân thành. Ông đã có nhiều thay đổi về mặt nhận thức. Ông không bao giờ còn “đả động” đến “cái sinh phần” ấy nữa, ông biết “thù nó” đến tận tim gan. Ông yêu cái làng Chợ Dầu kháng chiến với tất cả niềm kiêu hãnh cao cả! Cái làng Chợ Dầu của ông “mà cái phòng thông tin tuvên truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy”. Ông khoe làng mình “những ngày khởi nghĩa rầm rập”, các cụ phụ lão râu tóc bạc phơ vác gậy đi tập quân sự, “nhất là những hố, những ụ, những giao thông hào của làng ông thì lắm công trình không để đâu hết!”. Có thể nói, từ ngày đi tản cư, phải xa làng thân yêu, bao nỗi buồn vui của quá khứ và hiện tại chứa chất trong lòng ông bao tâm sự. Dưới ngòi bút của Kim Lân, ông Hai, một người nông dân yêu làng, yêu nước, hiền lành, chất phác… hiện lên một cách chân thực, ta thấy gần gũi, bình dị và đáng yêu lắm. Tình yêu làng, tình yêu quê hương là một trong những tình cảm sâu sắc nhất của người dân cày Việt Nam.
Quyết tâm kháng chiến, tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Hồ Chủ tịch cũng là một nét rất đẹp trong tư tưởng, tình cảm của ông Hai. Kháng chiến thì khắp nơi “Ruộng rẫy là chiến trường. Cuốc cày là vũ khí. Nhà nông là chiến sĩ”. Vợ con đi tản cư, nhưng ông Hai vẫn ở lại cùng với đội du kích “đi đào đường, đắp ụ” để bảo vệ cái làng Chợ Dầu thân yêu. Khi hoàn cảnh gia đình neo bấn, vợ con thúc hách, cực chẳng đã phải xa quê hương, ông tự an ủi mình: “Thôi thì chẳng ở lại làng cùng anh em được thì tản cư âu cũng là kháng chiến!”.
Xa làng rồi nhớ làng, tính nết ông Hai có phần thay đổi. Ông ít nói ít cười, lầm lầm lì lì, thậm chí cáu gắt, chửi bới vợ con. Ồng vô cùng đau khổ: “Chúng mày làm khổ ông! Chúng mày làm khổ ông vừa vừa chứ! Ông thì giết hết, ông thì giết hết!”. Chúng ta cảm thông với “tâm sự” u uẩn của ông, thương ông lắm!
Trong lúc ông Hai đang hồ hởi với những chiến tích kháng chiến, những gương dũng cảm anh hùng của quân và dân ta thì ông như bị sét đánh về cái án “dữ” cả làng Chợ Dầu “Việt gian theo Tây”,.., “vác cờ thần ra hoan hô” lũ giặc cướp! ông tủi nhục cúi gằm mặt mà đi, nằm vật ra giường như bị ốm nặng, nước mắt cứ tràn ra, có lúc ông chửi thề một cách chua chát! Ông sống trong bi kịch triền miên. Vợ con vừa buồn vừa sợ. “Gian nhà lặng đi, hiu hắt”. Ông sợ mụ chủ nhà… có lúc ông nghĩ quẩn “hay ta quay về làng”… nhưng rồi ông lại kiên quyết: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù!. Kim Lân rất sâu sắc và tinh tế miêu tả những biến thái vui, buồn, lo, sợ… của người nông dân về cái làng quê của mình. Họ đã yêu làng trong tình yêu nước, đặt tình yêu nước lên trên tình yêu làng. Đó là một bài học vô cùng quý giá và sâu sắc của ông Hai đem đến cho mỗi chúng ta!
Cuộc đối thoại giữa hai bố con ông Hai là một tình tiết cảm động và thú vị:
… – “À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?”
– “Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!”
Nghe con ngây thơ nói mà nước mắt ông chảy ròng ròng trên hai má… Lòng trung thành của cha con ông, của hàng triệu nông dân Việt Nam đối với lãnh tụ là vô cùng sâu sắc, kiên định, vẻ đẹp tâm hồn ấy của họ rất đáng tự hào, ca ngợi.
Vì thế, khi cái tin thất thiệt “cả cái làng Chợ Dầu Việt gian theo Tây” được cải chính thì ông Hai là người sung sướng nhất. Ông “tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”, “mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ…”. Ông mua quà cho con. Ông chạy sang nhà bác Thứ để “khoe” cái tin làng Chợ Dầu đánh giặc, nhà ông bị Tây đốt. Tự hào lắm chứ! Người đọc như được san sẻ niềm vui sướng cùng ông.
Gấp trang sách lại, chúng ta bồi hồi xúc động về tình yêu làng của ông Hai, về nghệ thuật kể chuyện tạo tình huống hấp dẫn, hồi hộp của nhà văn Kim Lân. Những phẩm chất tốt đẹp của ông Hai như cần cù lao động, chất phác, yêu quê hương đất nước… tiêu biểu cho bản chất cao quý, trong sáng của người dân cày Việt Nam. Chính họ đã đổ mồ hôi làm nên những bát cơm đầy dẻo thơm nuôi sống mọi người. Chính họ đã đem xương máu, đánh giặc “giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín”… (Thép Mới).
“Quê hương là chùm khế ngọt…” là niềm vui, nỗi buồn, là ước mơ đẹp của mỗi chúng ta. Quê hương đang đổi mới “ngói hóa”, no ấm, giàu có trong thanh bình.
Bài học sâu sắc nhất đối với em khi đọc truyện ngắn này của Kim Lân là tình yêu quê hương đất nước, từ lòng tự hào và biết ơn người dân cày Việt Nam.
Nghị luận về Làng (mẫu 5)
Trong những năm tháng kháng chiến của đất nước, hòa vào tinh thần kháng chiến của cả dân tộc, lòng yêu nước của mỗi con người chính là sức mạnh tạo nên thắng lợi vẻ vang. Có nhiều cách để thể hiện lòng yêu nước, yêu làng, gắn bó với làng cũng chính là thể hiện lòng yêu nước. Truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân đã nói về một người nông dân có tình yêu làng, yêu nước sâu sắc.
Nhân vật chính của truyện là ông Hai, ông là người dân của làng Chợ Dầu và ông yêu lắm cái làng của mình, lúc nào cũng khoe làng mình với tất cả niềm hãnh diện, tự hào. Lúc nào kể về làng ông cũng kể say xưa, cứ kể mà không cần biết người ta có chú ý nghe hay không. Ông kể về mọi thứ, từ những mái nhà ngói san sát sầm uất như thành phố, những con đường lát đá xanh trời mưa bẩn không đến gót chân, đường ấy mà phơi thóc thì thượng hạng, không một hạt thóc đất. Đối với ông cái gì của làng cũng to lớn và đẹp đẽ nhất, bên cạnh đó ông còn vinh dự và tự hào vì làng mình có bề dày lịch sử, về tinh thần kháng chiến của làng.
Những buổi tập có cả ông cụ râu tóc bạc phơ vác gậy đi tập, những hố, ụ, hào, lắm công trình không kể đâu cho hết. Khi phải xa làng đến nơi tản cư, ông đã mang theo nỗi nhớ thương, trông ngóng về làng, dù xa làng nhưng ông luôn dõi theo, nghe ngóng tin tức từ làng. Tới khi ông nghe phải tin dữ, rằng làng ông theo Tây, ông đã đau đớn và nhục nhã biết bao, ông dù không dám tin nhưng vẫn cảm thấy mặc cảm, tủi nhục và xấu hổ vô cùng khi người ta cứ chửi cả làng ông như thế. Ông không dám đối diện, cũng không có cách nào nghĩ khác đi, ông chỉ biết ru rú trong nhà, ám ảnh nỗi xấu hổ và nhục nhã, cho tới khi bà chủ nhà muốn đuổi gia đình ông đi, ông cảm thấy bế tắc, ông thoáng nghĩ trở về làng nhưng đã gạt phắt đi “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù”.
Có thể nói, nhà văn đã rất đồng cảm, thấu hiểu để có thể miêu tả chân thật và sinh động tâm trạng của ông Hai khi chứng kiến nỗi đau làng theo Tây, ông yêu làng nhưng ông vẫn rạch ròi với yêu nước, dù làng có còn hay mất thì tấm lòng của ông vẫn luôn hướng về cách mạng, ủng hộ cụ Hồ và kháng chiến. Khi ông nghe được tin cải chính làng Chợ Dầu của ông không theo giặc, chẳng có gì có thể diễn tả nỗi niềm sung sướng và hạnh phúc của ông, niềm vui hiện rõ trên khuôn mặt và cử chỉ. Ông cứ đem cái tin mà Tây nó đốt nhà ông cháy tàn cháy rụi ra mà khoe, ông chẳng tiếc gia tài của mình miễn đó minh chứng cho sự trung thành và danh dự của làng. Tình cảm của ông Hai đối với làng thật khiến cho người ta xúc động và khâm phục.
Qua truyện ngắn “Làng”, nhà văn Kim Lân đã để lại một ấn tượng khó phai trong lòng người đọc, đó chính là một nhân vật ông Hai với tình yêu làng, yêu nước sâu sắc, tinh thần kháng chiến bất diệt. Ông chính là đại diện cho những người nông dân yêu nước trong thời kì chống Pháp lúc bấy giờ.
Nghị luận về Làng (mẫu 6)
Trong cuộc kháng chiến của dân tộc, lòng yêu nước của mỗi người dân sẽ là sức mạnh vô biên tạo nên những thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Có nhiều cách thể hiện lòng yêu nước của mình, có thể là những việc làm nhỏ bé nhưng lại có ý nghĩa lớn lao. Yêu làng, gắn bó với làng cũng là cách thể hiện lòng yêu nước. Truyện ngắn Làng của Kim Lân nói về một người nông dân có tình cảm gắn bó với làng, với nước sâu sắc.
Truyện ngắn Làng kể về Ông Hai là một người yêu làng, gắn bó với làng, lúc nào ông cũng khoe về cái làng của mình. Mỗi khi nói về Làng, ông nói một cách say sưa mà không cần biết người nghe có chú ý hay không. Trước tiên ông khoe về cơ sở vật chất của làng ông, nhà ngói san sát, sầm uất, đường trong làng lát toàn bằng đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối xóm bùn không dính đến gót chân. Tháng 5 ngày 10 phơi rơm và thóc tốt thượng hạng, không có lấy một hạt thóc đất. Ông còn tự hào về cái sinh phần của tổng đốc làng ông. Ông tự hào, vinh dự vì làng mình có cái nét độc đáo, có bề dày lịch sử. Sau cách mạng ông khoe về làng là ông khoe về những ngày khởi nghĩa dồn dập, những buổi tập quân sự có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập. Ông còn khoe cả những hố, những ụ, những hào,… lắm công trình không để đâu hết.
Khi giặc kéo về làng, ông muốn ở lại cùng dân làng chiến đấu để bảo vệ làng mình, nhưng do yêu cầu của cấp trên ông phải xa làng. Phải xa làng đến một vùng đất khác ông đã mang theo tất cả nỗi niềm thương nhớ. Nơi đất khách quê người, ông khổ tâm day dứt khôn nguôi. Có thể nói cuộc đời và số phận của ông Hai thật sự gắn bó với buồn vui của làng. Tình yêu nước của mỗi người có thể bắt nguồn từ cái đơn giản thuộc về làng mình như cây đa, giếng nước, sân đình. Dù xa làng nhưng ông lão luôn hướng về làng, khi nghe tin làng theo Tây, Cổ ông lão “nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân” ông lão lặng đi, tưởng như không thể thở được. Ông cảm thấy đau đớn và nhục nhã vì cái làng chợ Dầu yêu quý của mình theo giặc. Ông nguyền rủa bọn theo Tây: “chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Cũng chình từ lúc ấy, ông không dám đi đâu hết, suốt ngày ru rú trong nhà và nghe ngóng tin tức. Đến khi mụ chủ nhà đến báo không cho gia đình ông ở nữa, ông thấy tuyệt đường sinh sống và ông nảy ra ý định: “hay là quay về làng?” nhưng rồi ý nghĩ đó lập tức bị ông lão phản đối ngay vì: “làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù.” Ông Hai đã phải trải qua cảm xúc đau đớn khi phải suy nghĩ xem nên về làng hay không, đó là sự thất vọng và đau đớn đến cùng cực trong nội tâm của nhân vật.
Nhà văn đã rất đồng cảm với nhân vật khi miêu tả một cách chân thật tâm trạng của nhân vật khi phải chứng kiến nỗi đau mất làng mất nước. Ông Hai không biết tâm sự nỗi đau dày vò của mình nên dành trò chuyện với đứa con út, đó cũng là cách để ông thanh minh cho làng mình. Ông hỏi con: “con ủng hộ ai?” Thằng bá dơ tay mạnh bạo và rành rọt: “Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm”. Cái lòng của bố con ông là thế đấy “chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”. Khi nhận được tin đính chính rằng làng ông không theo giặc, thì nỗi vui mừng, sung sướng hiện rõ trên khuôn mặt và cử chỉ của ông. Ông đi từ đầu làng đến cuối xóm khoe cái tin làng mình không theo giặc, khoe cả cái việc nhà ông bị đốt cháy một cách sung sướng, hả hê: “bác Thứ đâu rồi! Bác Thứ làm gì đấy? Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn! ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính, ông ấy cho biết… cái tin, cái tin làng chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! toàn là sai sự mục đích cả”. Nhà bị đốt nhưng ông không hề tỏ ra lo lắng mà còn rất vui, bởi cái nhà kia không quan trọng bằng danh dự, tinh thần chiến đấu của làng ông. Tình cảm của ông đối với làng thật xúc động, thật đáng khâm phục biết bao.
Truyện ngắn Làng của Kim Lân để lại ấn tượng trong lòng người đọc chính là nghệ thật sử dụng ngôn ngữ nhân vật mà ông Hai là điển hình. Cách miêu tả tâm lý nhân vật, diễn biến tâm lý của ông Hai đã làm cho người đọc có những cảm xúc vô cùng xúc động. Qua cách miêu tả nhân vật của tác giả giúp ta hình dung được một thời kỳ chống Pháp sôi nổi của nhân dân, mọi người một lòng theo Bác, theo Đảng kháng chiến đến cùng, có lẽ vì vậy mà cuộc chiến của ta đã giành được thắng lợi vẻ vang.
Nghị luận về Làng (mẫu 7)
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được khai sinh, tạo ra một thế đứng chính nghĩa đối lập với âm mưu thống trị và phi nghĩa của giặc Pháp cùng bọn tay sai. Sức sống và âm vang của cuộc cách mạng truyền rộng khắp quê hương và cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Dưới sự lãnh đạo của Bác Hồ lực lượng cách mạng đã mau chóng khơi dậy và chuyển hóa cả một dân tộc… Trong bối cảnh đó, nhà văn Kim Lân đã viết truyện ngắn “Làng” như một biểu tượng về bức tranh rộng lớn nêu trên.
Nhà văn kể cho chúng ta về cảnh đời của ông Hai, một nông dân ở làng Chợ Dầu cùng với vợ con tản cư sang ở tạm làng bên vì giặc Pháp tiến vào làng ông, bao vây, càn quét, khủng bố.
Từ ngày ở nơi tạm cư, vừa phần không có việc gì ra hồn cho ông làm, vừa phần vì nhớ làng, nhớ anh em du kích còn ở làng nên ông Hai rất bực bội. Ông thường hay chạy sang nhà bác Thứ bên cạnh để nói chuyện cho khuây khỏa. Hết chuyện thời sự đâu đâu mà ông nghe được, lại đến chuyện làng của ông bởi ông vốn hay khoe cái làng từ xưa và ông cứ ân hận vì vợ, vì con mà không được ở lại làng chiến đấu cùng anh em du kích.
Chuyện trò rồi đi vỡ đất, nhưng ông Hai như chẳng lúc nào quên được làng và nôn nóng ngóng tin kháng chiến khắp nơi. Ông đến cả văn phòng thông tin nghe đọc báo. Rồi nghe tin dọc đường đồn rằng làng Chợ Dầu theo giặc khiến ông Hai buồn đau tủi nhục vô cùng, về nơi ở tạm, ông vật vã đau xót. Nhưng rồi tin ấy được cải chính, ông Hai sung sướng như được rửa nhục và ông lại tiếp tục say sưa kể bao nhiêu chuyện về cái làng Chợ Dầu thân yêu của ông.
Câu chuyện chỉ diễn ra ít ngày ở nơi tạm cư, xoay quanh hình ảnh ông Hai cùng bà vợ, đứa con và mụ chủ nhà cùng đôi ba nhân vật khác, gắn liền với âm vang dân làng, cũng như tin tức kháng chiến nơi nơi vọng về. Nhưng tất cả câu chuyện lại có sức khơi mở một bức tranh sinh động đầy sức lôi cuốn và giàu ý nghĩa thú vị…
Từ không gian chật hẹp chung đụng như tù túng ở nơi tạm cư của gia đình ông Hai, tác giả đã tuần tự kể rất tự nhiên về các tình huống khi mà ông Hai bung ra ngoài đi tới, đi lui, đi đây đi đó bộc lộ tâm tình, tính cách một nông dân.
Trang văn có chất dí dỏm và tạo những giây phút xúc động. Làm sao không mỉm cười khi mà ông Hai vốn chỉ quen cày cuốc già nửa đời người nơi gốc tre bờ ruộng, tầm hiểu biết chính trị lõm bõm vụn vặt ấy.
Thế mà ông chuyện trò với bác hàng xóm toàn là những tin thời sự liên quan đến vận mệnh cả nước “… Này Đác-giăng-li-ơ nó lại về Pháp đấy nhỉ! Hừ, chơi vào! Còn là đi đi, về về! …”, hoặc “Báo Cứu quốc hôm nay nghe sướng quá. Cụ Hồ đối đáp với các nhà báo ngoại quốc đâu vào đấy. Cứng rắn mà lại mềm mỏng lắm. Cụ bảo rằng thì là dân ta chỉ muốn độc lập và thống nhất thôi, không thì dân ta đánh đến cùng. Thật đấy, chuyến này không được độc lập và thống nhất thì chết cả đi chứ sống làm gì cho nó nhục. Mà có khi nào mình không muốn thống nhất độc lập hở bác?”.
Rồi ông miên man nói sang cả chuyện chính trị quân sự nữa “Ta bố trí nó thế này, ta bố trí nó thế kia. Ta chính trị nó thế này, ta chính trị nó thế kia. Rất trơn tru, rất thành thạo mà chẳng ra đâu vào đâu cả”. Và người đọc cười xòa trước cái ngộ nghĩnh của ông lão khi ông giải thích tài nói huyên thuyên của ông. Đó là lúc ông “kéo dài một bên ria mép ra, tủm tỉm: – cũng là học lỏm cả đấy thôi bác ợ… Chả là tôi cũng là phụ lão cứu quốc mà…”.
Và cũng thật tếu táo, sống động khi tác giả để cho ông Hai bộc lộ lời nói dân dã bình dị tự nhiên khi cao hứng khoe lấy, khoe để cái làng của ông khi xưa. “… Chết… Chết lắm lắm là của… Cái tượng đá này ông Hoàng Thạch Công đánh rơi giày. Những người bằng sứ kia là bát tiên quá hải… kia là máy thu lôi. Khiếp lắm, sấm sét là thu tất cả vào trong ấy”.
Nhưng bây giờ khi Cách mạng bùng lên, ông Hai lại say sưa khoe làng những khác hẳn: “Ông khoe những ngày khởi nghĩa rồn rập ở làng, mà ông gia nhập phong trào từ thời kì còn bóng tối. Những buổi tập quân sự. Cả giới phụ lão có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập một hai…”
Thú vị hơn cả là sau khi thoát cái bực bội trước tính tình keo kiệt, soi bói, đỏng đảnh của mụ chủ nhà bằng cách ra ngoài cho khuây khỏa, ông Hai lại tới phòng thông tin. Dù có qua khóa bình dân học vụ xóa mù chữ nhưng ông Hai vẫn lõm bõm đọc câu được, câu chăng. Cho nên ông “cứ đứng vờ vờ xem tranh ảnh chờ người khác đọc rồi nghe lỏm”.
Ông Hai “ghét thậm những anh cậy ta đây lắm chữ, đọc báo lại cứ đọc một mình, không đọc ra thành tiếng cho người khác nghe nhờ mấy”. Nhưng hôm ấy nỗi khát khao nghe nhờ của ông Hai được đáp ứng ngay vì “vớ được anh dân quân đọc rất to, dõng dạc, rành rọt từng tiếng một. Cỡ chừng anh ta cũng mới học, đánh vần được chữ nào anh ta đọc luôn chữ ấy…” thế là ông Hai vớ được “bao nhiêu là tin hay”.
Tin một em nhỏ nằm trong lòng địch xung phong mạo hiểm cắm cờ Cách mạng lên tháp Rùa, tin một anh trung đội trưởng giết bảy tên giặc rồi tự sát, hay đội nữ du kích Trưng Trắc bắt sống tên quan Hai… Và còn bao nhiêu tin chiến đấu của du kích quân, chiến sĩ Cách mạng trên khắp các mặt trận khiến ông Hai vô cùng tự hào “Khiếp thật, tinh những người tài giỏi cả”, “làm gì mà rồi thằng Tây không bước sớm…”.
Tiếp đến, cao điểm của câu chuyện là ông Hai đau buồn, tủi nhục trước tin đồn đại cái làng Chợ Dầu của ông đã đầu hàng, đi theo giặc. Bố con ông ôm nhau khóc mà ông vẫn khát khao hướng về Cách mạng “… ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ…” và tâm hồn vẫn mong mỏi thầm kín chân thành: “Anh em đồng chí biết cho bố con ông…”, “Cụ Hồ trên đầu, trên cổ xét soi cho bố con ông”…
Những tình huống và sự việc cụ thể, sống động vừa được điểm qua đó đã mở ra một hiện thực giàu ý nghĩa của những năm tháng không thể nào quên: Trong những tháng năm đầu của Cách mạng tháng Tám thành công, rồi tiếp ngay là tháng năm tiến hành sự nghiệp toàn quốc kháng chiến. Âm vang và sức sống của cách mạng, của hình ảnh Bác Hồ đã bắt rễ ngay vào cuộc sống nơi lũy tre, bờ ruộng thôn quê. Tạo ra chuyển biến và dấy lên được cảm hứng đầy tin yêu nơi những tâm hồn mộc mạc, chân chất, vốn sẵn tấm lòng gắn bó lâu đời với làng xóm, quê hương…
Những hình ảnh người dân rời làng khi giặc tới, tạm thời phân tán đi tạm cư nơi này, nơi khác, chỉ còn lại du kích chiến đấu. Cũng như tin tức nổi dậy khắp nơi lan truyền như đồn về trong các tình huống để rồi gợi lên bao háo hức, nôn nóng, tự hào… Rồi cả tin buồn đồn đại làng bỏ kháng chiến đi theo giặc, làm đọng lại trong lòng người đọc bao đau xót, trăn trở.
Và cuối cùng bất ngờ cái tin làng theo Tây, theo giặc được cải chính, cái danh dự của làng được phục hồi ở phần cuối câu chuyện, cùng niềm vui của bao tâm hồn, tất cả như làm rộn rã trang văn. Làm tỏ rõ thêm hiện thực một thời khi mà sức sống của chính nghĩa cách mạng, của lí tưởng độc lập, tự do nằm sâu được trong lòng dân tộc…
Trong ý nghĩa đó, chúng ta hiểu vì sao trên đường tản cư, chạy giặc, hình ảnh người đàn bà vừa cho con bú, vừa giận dữ văng tục trước tin có kẻ bám gót quân thù: “Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! Đói khổ ăn trộm bắt được người ta còn thương. Cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát!”.
Và chúng ta càng thú vị khi hiểu vì sao nhân vật mụ chủ nhà trong truyện tưởng như thật đáng ghét, tưởng như mụ chẳng chút tình nghĩa gì với đồng bào, với cuộc kháng chiến. Nhưng cuối cùng mụ lại sáng rỡ khuôn mặt, hòa chung niềm vui với ông Hai “Mụ giương tròn cả hai mắt mà reo: A! Thế chứ! thế mà tớ cứ tưởng dưới nhà đi Việt gian thật, tớ ghét ghê ấy… Thôi, bây giờ thì ông bà lại cứ ở tự nhiên ai bảo sao. Ăn hết nhiều chứ ở hết bao nhiêu… Mụ cười khì khì…”. Đó phải chăng là cái mẫu số chung của từng tâm hồn cụ thể, làm nên sức mạnh yêu làng, yêu nước, nơi toàn thể nhân dân…
Cứ thế, nghệ thuật xây dựng cốt truyện của nhà văn Kim Lân đã có một vẻ đẹp truyền lan được cảm xúc và ý nghĩa sâu đậm. Các tình huống như tự nhiên bước ra từ cuộc sống thực đời thường dân dã nhưng lại giàu sức biểu hiện cho một giai đoạn giao thời. Phối hợp các tình huống sống động trong truyện, trang văn của Kim Lân đã để lại dấu ấn sâu đậm cho chúng ta về niềm say sưa yêu làng, yêu nước của những tâm hồn chất phác khi mà cao trào cách mạng và cuộc kháng chiến đang thâm vào từng mạch sống của quê hương.
Bức tranh của truyện trở thành một hình tượng giàu tính lãng mạn trong một thời toàn dân chiến đấu và cuộc sống mỗi người như hòa làm một nơi lí tưởng cứu nước, cứu nhà, cứu làng xóm thân yêu.
Nơi những trang văn, cái sống động, đặc sắc của cốt truyện “Làng” cũng đã dẫn theo hình tượng nhân vật mà người đọc không thể nào quên. Đó là hình ảnh ông Hai. Từ các tình huống của hoàn cảnh, người đọc chúng ta như cảm nhận được tính cách mãnh liệt và say sưa của một nông dân đôn hậu, chất phác giữa một thời trọng đại của đất nước.
Cũng, như bao người dân Việt, từ ngàn đời gắn bó với bờ ruộng, lũy tre, với họ hàng, làng nước. Ông Hai như tiếp nối cái tình cảm truyền thống không thể mờ phai, đó là cái tình làng nghĩa xóm nơi mà ông sinh trưởng và lớn lên. Và ông đã yêu cái làng chợ Dầu của ông hơn ai hết. Yêu đến độ lúc nào cũng chỉ muốn khoe làng cho người khác thán phục. Ông chọn một sự vật cụ thể là “cái sinh phần” lăng mộ của viên tổng đốc để khoe, ông xuýt xoa mô tả từng chi tiết và có khách đến chơi là “dắt ra xem lăng cho kì được”, rồi tán tụng đến khi khách phải kinh ngạc và ông Hai thì thấy “hả hê cả lòng” tưởng “thấy cái lăng ấy một phần như có ông”.
Thế nhưng thời thế biến chuyển, cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám nổ ra với những tư tưởng mới thấm dần vào từng tâm hồn, từng hoạt động cách mạng ở xóm thôn khiến ông Hai cũng đổi thay nếp nghĩ. Ông gia nhập “phong trào” khi còn “bóng tối”. Ông tham dự “qua khóa bình dân học vụ”… dù chưa đánh giỏi bằng ai, nhưng có lẽ nhờ đó mà ông Hai biết đặt tình yêu vào đúng chỗ, đúng nơi. Và ông đã nhận ra “cái sinh phần”, cái lăng mộ kia chỉ là vết tích của một thời đế quốc Pháp và quan lại phong kiến tay sai làm khổ ông, “làm khổ bao nhiêu người làng này nữa”…
Gia nhập kháng chiến, nhận rõ kẻ thù, nhìn thấy, nghe thấy cũng đổi thay cụ thể, khi cách mạng bùng lên… tâm hồn vốn yêu làng nước của ông Hai lại đầy cảm hứng dâng trào! Ông nói chuyện về cái làng ấy một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển hoạt động. Và “bây giờ khoe làng, ông lão lại khoe khác. Ông khoe những ngày khởi nghĩa rồn rập… làng của ông có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng… Những buổi tập quân sự… phụ lão có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập…”
Rõ ràng cảm hứng yêu làng giờ đây như gắn liền với tâm hồn say sưa cùng cao trào khởi nghĩa rộng lan. Trong ý nghĩa dó, người đọc chúng ta càng thấy thú vị khi ông Hai bàn chuyện làng, chuyện nước bằng thứ ngôn ngữ nửa quê, nửa tỉnh một cách hồn nhiên, tếu táo “Ta chính trị nó thế này, ta chính trị nó thế khác. Rất trơn tru, rất thành thạo mà chẳng đâu vào đâu cả”.
Từ đó, trang văn biểu hiện được tính cách tâm hồn ông Hai giờ đây lúc hân hoan, háo hức, tự hào, lúc buồn tủi xót đau, lúc sảng khoái dâng trào đều khởi đi từ nhịp sống nơi ông gắn liền với chuyện làng, chuyện nước cùng cuộc kháng chiến sôi động ngày đêm dội về.
Tóm lại, từ những phân tích phác lược nêu trên về nghệ thuật và nội dung của truyện ngắn “Làng”, người đọc chúng ta có thể bước đầu cảm nhận được giá trị ngòi bút viết truyện của nhà văn Kim Lân.
Chỉ với một truyện ngắn, tình tiết cùng nhân vật không nhiều nhưng cách phối hợp miêu tả, kể chuyện, xây dựng các tình huống, xây dựng ngôn ngữ hành động nhân vật một cách sống động, chân thật, tự nhiên mang đậm nét điển hình… giàu sức khơi gợi, truyền cảm.
Trang truyện của nhà văn đã phản ánh được sâu sắc hiện thực một thời khi mà những người nông dân vốn yêu làng, yêu nước, bộc lộ những chuyển biến tâm hồn cùng hành động trong niềm tự hào, niềm khao khát đến với cách mạng, tham gia cách mạng, làm chủ lấy vận mệnh để chiến đấu giành lại nền độc lập cho quê hương.
Nghị luận về Làng (mẫu 8)
Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là cầu tre nhỏ
Con về rợp bướm vàng bay.
(Quê hương – Đỗ Trung Quân)
Quê hương trong tâm khảm mỗi người là nơi thân thương nhất, bình dị nhất. Tình yêu quê hương vì thế luôn là một chủ đề xuyên suốt trong văn học. Truyện ngắn Làng cũng nằm trong mạch nguồn cảm xúc ấy. Đây là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1948). Truyện đã khắc họa nhân vật ông Hai – một lão nông cần cù, chăm chỉ, mang nặng lòng yêu làng, yêu kháng chiến.
Ông Hai yêu cái làng chợ Dầu của ông thật đậm đà, tha thiết, yêu đến nỗi đi đâu ông cũng khoe về cái làng của ông. Kể về làng Chợ Dầu, ông nói một cách say sưa mà không cần biết người nghe có chú ý hay không. Ông khoe làng ông có nhà ngói san sát, sầm uất, đường trong làng lát toàn bằng đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối xóm bùn không dính đến gót chân. Tháng 5 ngày 10 phơi rơm và thóc tốt thượng hạng, không có lấy một hạt thóc đất.
Ông còn tự hào về cái sinh phần của tổng đốc làng ông. Ông tự hào, vinh dự vì làng mình có cái nét độc đáo, có bề dày lịch sử. Nhưng khi cách mạng thành công, nó đã giúp ông hiểu được sự sai lầm của mình. Và từ đó, mỗi khi khoe về làng là ông khoe về những ngày khởi nghĩa dồn dập những buổi tập quân sự có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập. Ông còn khoe cả những hố, những ụ, những hào,… lắm công trình không để đâu hết. Chính cái tình huống ngặt nghèo khi giặc tràn vào làng, ông buộc phải xa làng. Xa làng ông mang theo tất cả nỗi niềm thương nhớ. Vì vậy, nên lúc tản cư, ông khổ tâm day dứt khôn nguôi.
Quả thật, cuộc đời và số phận của ông Hai thật sự gắn bó với buồn vui của làng. Tự hào và yêu nơi “chôn rau cắt rốn” của mình trở thành một truyền thống và tâm lí chung của mọi người nông dân thời bây giờ. Có thể tình yêu nước của họ bắt nguồn từ cái đơn giản, nhỏ: cây đa, giếng nước, sân đình… và nâng cao lên đó chính là: tình yêu đất nước. Tới đây, là chợt nhớ đến câu nói bất hủ của nhà văn I-li-a Ê-ren-bua: “lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”.
Tình yêu làng của ông Hai càng được thể hiện rõ qua những ngày ông đi tản cư. Ông luôn nhớ về làng những ngày ở vùng tản cư, ông yêu làng, yêu đường làng, ngõ xóm, yêu nhà ngói, sân gạch. Ông yêu tất cả những gì gần gũi, độc đáo của làng. Ông yêu những giờ phút hạnh phúc được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá. Từ tình yêu làng nồng cháy ấy, truyền thống ấy, ông đến với Cách mạng từ lúc nào, từ bao giờ mà chính ông cũng không hay biết. Ông tham gia tản cư vì tản cư cũng là tham gia kháng chiến. Ở vùng tản cư, ông luôn dõi theo tin tức của làng, ông hay đến phòng thông tin nghe đọc báo.
Hôm ấy, ông nghe được bao nhiêu là tin hay: “Một em nhỏ xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kì lên Tháp Rùa”, “Một anh trung đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc đã tự sát bằng quả lựu đạn cuối cùng”; “Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người đi mua hàng đã bắt được một tên quan hai bốt Thao ngay giữa chợ. Chao ôi! Bao nhiêu là tin hay, ruột gan ông lão cứ náo nức cả lên. Đến đâu, ông cũng thấy hãnh diện, ông hay khoe về làng, về tinh thần kháng chiến của làng. Sau Cách mạng, ông khoe về làng cũng khác, ông không còn tự hào vì cái sinh phần cụ Thượng nữa mà thấy thù nó. Cách mạng tháng Tám thành công đã đưa đến cho người nông dân những nhận thức mới, suy nghĩ mới về làng. Họ đã biết nhận thức được rằng cái gì đúng, cái gì sai.
Thế nhưng, niềm vui chưa kịp bày tỏ thì một cú sốc lớn đã đến với ông Hai: đó là cái tin làng Chợ Dầu là Việt gian theo Tây. Hôm ấy, ông vừa bước ra khỏi phòng thông tin thì nghe được cái tin ấy từ miệng người đàn bà tản cư khiến ông lão: “lặng người đi, tưởng như đến không thở được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi. Ông Hai vô cùng bàng hoàng trước cái tin ấy. Thế rồi ông rơi vào tột cùng của sự đau đớn, ông cố lê những bước chân chậm rãi về nhà. Những ngày sau đó, ông chỉ ru rú ở trong nhà, không dám đi đâu cả, ở đâu ông cũng được bộc lộ rõ nét.
Đầu tiên, ông về nhà và không dám đi đâu cả, chỉ ở nhà một mình, giọng nói chua lanh lảnh của người đàn bà tản cư kia lại cứ văng vẳng trong tâm trí ông mãi: “Đói khổ ăn cắp ăn trộm, bắt được người ta còn thương chứ cái giống Việt gian bán nước ấy thì cứ cho mỗi đứa một nhát”. Chao ôi! Sao lại có chuyện ấy được, chẳng lẽ lại là sự thật, nhìn lũ con thơ, tủi thân, nước mắt ông lão cứ thế tràn ra: “Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư; Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu… “. Lòng ông lão như bị giằng xé, có cái gì như đang bóp nghẹt quả tim ông khiến ông khó thở, đau đớn tột cùng. Rồi ông lại tự mình nói chuyện với mình, lúc thì ông bảo không phải và lấy cớ để thanh minh cho chuyện ấy. Rồi ông lại thấy điều đó là sự thật thì hợp lí hơn: “Không có lửa làm sao có khói. Ai hơi đâu người ta bịa tạo ra những chuyện ấy làm gì? Chao ôi! Cực nhục chưa? Khắp cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm cái giống Việt gian bán nước…”. Rồi lòng ông lại quặn đau, nội tâm ông luôn luôn thay đổi, luôn có hai quan điểm đối lập nhau.
Rồi ông lại trò chuyện với đứa con út để vơi đi đôi phần, ông hỏi đứa con ông ủng hộ làng hay Cụ Hồ, nghe nó ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh, lòng ông như được vun đắp phần nào, càng vững trí hơn. Cái lòng bố con ông như thế đấy, đâu dám đơn sai: “Các đồng chí biết cho bố con ông, Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông”. Ông rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan khi biết ở vùng tản cư không ai chứa những người làng Chợ Dầu nữa để đi đến một quyết định cao đẹp. “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Đó là một hành động cao đẹp của ông Hai – một người dân yêu nước. Cuối cùng, ông đã chọn đi theo Cụ Hồ theo lí tưởng cách mạng, ở đây ta thấy được sự hòa quyện giữa tình yêu làng với tình yêu nước. Đó là bước chuyển biến mới trong tư tưởng tình cảm của người nông dân Việt Nam buổi giao thời mới – cũ.
Và rồi tin làng ông Việt gian theo Tây đã được cải chính, ông lại rơi vào sư hả hê sung sướng, hạnh phúc vô bờ. Ông lại được khoe về làng, được tự hào về làng thậm chí ông khoe cả cái nhà ông bị Tây đốt cháy, ông kể tỉ mỉ, chi tiết cho bác Thứ nghe về trận đánh hôm Tây nó vào khủng bố, chúng nó cả bao nhiêu thằng chúng ta đánh được bao nhiêu, làng ông chống đỡ, phòng ngự ra sao, như chính ông lão vừa dự trận đánh vậy. Đến đây, ta thấy được nội tâm, tâm trạng ông Hai đã có sự thay đổi rõ rệt, từ tình huống thay đổi mà con người cũng đổi thay, sự đau đớn tột cùng giờ đã chuyển sang hả hê sung sướng. Qua đây ta thấy được tầm quan trọng của nghệ thuật xây dựng tình, huống truyện và miêu tả nội tâm nhân vật đối với một tác phẩm văn học.
Quê hương là hình ảnh không thể phai mờ trong thơ ca. Nhà văn I-li-a Ê-ren-bua đã từng viết: “Lòng yêu làng quê trở thành tình yêu đất nước”. Kim Lân đã đưa được thông điệp ấy đến với người đọc thông qua tình huống truyện bất ngờ, gay cấn và nội tâm nhân vật thay đổi bất ngờ, phù hợp. Đó là nét đẹp mới của người nông dân, hòa quyện tình yêu với làng quê thân yêu. Ông Hai là tiêu biểu của người nông dân Việt Nam buổi giao thời mới – cũ.
II. Nghị luận Một chuyện đùa nho nhỏ
Nghị luận Một chuyện đùa nho nhỏ (mẫu 1)
Văn học luôn là những thước phim đặc sắc phản ánh đời sống, và cũng là bức tranh tưởng tượng dựa trên sức sáng tạo của con người. Người tác giả viết nên những án văn sẽ trở thành một nhà nghệ thuật vĩ đại. Nhắc đến đó, trong văn học Nga người ta nghĩ ngay đến Sê Khốp, một thầy thuốc chữa bệnh cho con người dựa vào văn học. Đó là những căn bệnh tinh thần đáng sợ, được chữa lành và cứu rỗi. Một chuyện đùa nho nhỏ là một truyện ngắn có đề tài về tình yêu, được viết vào năm 1886.
Ngay trong những dòng đầu tiên, ta đã thấy được khung cảnh của nước Nga hùng vĩ và xinh đẹp. Một buổi sáng trong sáng nhưng lại giá lạnh, dưới bầu trời ấy là đất nước ngập tràn tuyết trắng. Bức tranh xinh đẹp đó cũng là khỏi đầu của một câu chuyện tình yêu xinh đẹp. Giọng văn hàm súc của ông đã tạo nên một cô gái Nga như bông tuyết trắng trên nền trời. Sự xinh đẹp ấy có thể khiến người đọc choáng váng. Những chi tiết từ mái tóc, lông tơ trên môi cũng được tác giả miêu tả kỹ nhắm thể hiện sự mong manh của người con gái. Sự việc bắt đầu từ khi anh hàng xóm đến rủ cô nàng đi trượt tuyết và được cô nàng đồng ý.
Trong quá trình ấy, có thể thấy được Nadia là một người nhút nhát, rụt rè. Cô lấy hết dũng khí nhận lời chàng trai, cũng vượt qua nỗi sợ để cùng nhân vật tôi trượt xuống bên dưới. Vào giây phút căng thẳng đó, chàng trai bên tai cô nói lời yêu. Đến khi xuống tới chân dốc, cô vừa kinh ngạc, vừa nghi ngờ về lời tỏ tình của chàng trai. Có thể thấy cô là một cô gái dịu dàng, không vồ vập hay cáu kỉnh. Tuy nhiên, những chi tiết “không muốn tin rằng gió đã nói điều đó” như đang nói lên điều gì đó. Phải chăng thực ra cô gãi cũng đã đem lòng cảm mến nhân vật “tôi”? Như để khẳng định lại, cô đề nghị cùng chàng trai trượt tiếp lần nữa. Vẫn vào khoảnh khắc ấy, chàng trai lại nói tiếp câu đó. Giữa lúc Nadia đang chìm đắm, nhân vật “tôi” mới chỉ ra rằng đó chỉ là một trò đùa cợt.
Tuy rằng sợ hãi, nhưng Nadia như đắm chìm trong những lời tỏ tình giả dối lúc trượt tuyết ấy. Vậy nên nàng dường như không thể không chơi trượt tuyết, tuy vẫn còn khiếp đảm với quá trình trượt xuống. Tuy đó là một hành động mạo hiểm, nhưng Nadia biết, chỉ có những lúc ấy cô nàng mới nghe được lời tỏ tình tưởng chừng như chân thật ấy. Vậy là chỉ vì một câu nói, một trò đùa nhỏ của người khác đã khiến người con gái đảo lộn cuộc sống và sinh hoạt. Những khi nàng leo lên bậc thang để trượt xuống, nhân vật “tôi” lúc này chỉ đứng dưới và thờ ơ nhìn. Khi trượt xuống, nhân vật tôi nhận ra rằng có lẽ tình cảm của mình đối với cô gái dũng cảm kia đã tiến lên một bước. Có lẽ nào, tình cảm nhân vật “tôi” trở thành tình yêu, cảm mến, là một phép thử cho tình cảm cả hai người. Chi tiết ấy chính là một chướng ngại vật trên con đường của cả hai, và dường như họ đã vượt được qua nó. Và cuối cùng, một phần nhân vật “tôi” tạo nên phép thử ấy bởi khi bắt đầu, tôi không mất mát gì sau trò chơi.
Đông qua, xuân tới xóa đi những ngày lạnh giá mùa đông. Hai người lại gặp nhau trong khung cảnh mùa thu nên thơ tại nước Nga xinh đẹp. Trước ngày đi, hai người mới thực sự mở lòng ra với nhau, mới có câu “tôi yêu em” thực sự. Sau một trò đùa nhỏ, hai con người lại gần sát lại nhau đến thế! Sự rụt rè, ngại ngùng của người con gái và sự tinh tế, hướng nội của người con trai đã tạo nên cho chúng ta một tình huống truyện độc đáo. Tuy nhiên kết cục của câu truyện, nhân vật “tôi” lại không có được Nadia. Cô nàng đã đến với một người khác, tìm được hạnh phúc của riêng mình. Có lẽ, đây chính là một kết thúc tốt cho cả hai người. Kết cục ấy cũng khiến cho người đọc có thêm một khoảng trống để suy nghĩ và có thể viết tiếp câu chuyện.
Đọc văn của Sê khốp, những nhân vật dưới ngòi bút của ông như đang sống. Họ như đang có thực, đang sống và nhận được hạnh phúc ở một nơi nào đó trên thế giới này. Câu chuyện trên cũng thế, tình yêu của hai người tuy đều thầm lặng nhưng lại làm cho người đọc sự rung động. Có lẽ ở một kết cục nào đó, hai người ấy sẽ hạnh phúc bên nhau.
Nghị luận Một chuyện đùa nho nhỏ (mẫu 2)
Văn chương xưa nay luôn là tấm gương lớn phản ánh hiện thực trong tính khuynh hướng tư tưởng và tình cảm. Văn chương là “con đẻ” của đời sống không trải qua “vạn kiếp” biến thiên văn chương trở về nơi mà nó được với danh phận là một “người mẹ” đã trải qua tất cả những gì trên đời, ôm trong lòng hết thảy những hỉ-nộ-ái-ố của thế gian để giáo dục chính đứa con đời sống của mình. Như M.L.Kalinine đã từng phát biểu: “Văn học làm cho con người thêm phong phú, tạo khả năng cho con người lớn lên, hiểu được con người nhiều hơn”. Trong cuộc hành trình trở về ấy có lẽ người nghệ sĩ chính là người đã dắt văn chương đi những bước đi đầu tiên. Thật vậy, trong những năm tháng hành nghề y của mình nhà văn vĩ đại của nước Nga-Sê Khốp đã chữa lành bệnh cho biết bao người cả về thể xác lẫn tinh thần, với tinh thần nhân đạo cao cả những tác phẩm văn học của ông thực sự đã trở thành một “người mẹ” cứu rỗi biết bao tâm hồn.
Nhắc đến Sê Khốp người ta sẽ nghĩ ngay đến hàng hàng tá những nhận định, những quan niệm về văn học của ông, nhưng để nói ra những lời ấy ông đã đánh đổi bằng một cuộc sống với tuổi thơ tù đọng, nhàm tẻ, lẻng xẻng những xu, hào, rền rĩ những lời chì chiết, đay nghiến và đòn roi. Sinh ra trong một gia đình thương nhân cấp thấp; cùng với cuộc sống cực khổ, Sê Khốp cứ thế trưởng thành, lơn lên nhưng tâm hồn không hề bị cằn cỗi, đui chột mà ngược lại càng mềm mại, dịu dàng, trong sáng. Đến với văn chương là để giúp đỡ gia đình, khi ông được học bổng, và rời thành phố quê hương tới Moscow làm sinh viên Đại học Y khoa, nhưng bằng văn tài kiệt xuất của mình ông đã trở thành đại biểu lớn cuối cùng của văn học hiện thực Nga nửa cuối thế kỷ XIX.
Có thể nói Sê Khốp là bậc thầy của thể loại truyện ngắn, một thể loại tưởng chừng như đơn giản nhưng đã làm nản lòng không ít nhà văn. Không chỉ thế, điều đặc biệt và cũng là sự độc đáo, riêng biệt ở hầu hết các truyện ngắn của ông chính là không có cốt truyện nhưng sức chứa tinh thần mà ông đem lại cho người đọc lại rất lớn. Có thể ví các truyện ngắn của ông như những “lát cắt tươi rói” trong cuộc sống hoặc nói một cách khác, ông đã bê những “mảng sống” ngoài xã hội vào trong truyện của mình. Nói về Sê Khốp, Bậc thầy ngôn từ Việt Nam-Nguyễn Tuân từng bộc bạch: ” Sêkhốp là con chim linh điểu của buổi tịch dương trên đồng cỏ dại nước Nga xưa, Sêkhốp là cánh diều sáo vĩ đại, trên đôi cánh âm vang tiếng nói của hiện thực và nhịp thơ của lãng mạn. Sê Khốp là bậc thầy của tiếng Nga, tên tuổi ông sáng chói trong lâu đài của Chủ nghĩa nhân đạo.”
Bước vào gia tài truyện ngắn của nhà văn ta thấy thật “giàu sang”, “phong phú” với hơn năm trăm truyện ngắn với những cảm hứng khác nhau. Ta có thể kể đến “Những kẻ ảm đạm”, “Người trong bao”… nhưng những tác phẩm ấy man mác cái điệu buồn buồn. Khác với số còn lại, “Một Chuyện đùa nho nhỏ” là một trong những câu chuyện nói về tình yêu, về sự trong sáng đầy chất lãng mạn của cuộc sống được Sê Khốp viết vào năm 1886.
Đi vào trang văn của Sê Khốp ta như được ngắm nhìn khung cảnh của nước Nga xinh đẹp. Đó là “Một buổi trưa mùa đông trong sáng… Trời giá lạnh”, dưới bầu trời trong xanh xen xen vào vài tia nắng cùng lớp tuyết trắng phủ đầy mặt đất, đây đích thực là cảnh đẹp của nước Nga. Trong một câu miêu tả nhà văn đã vẽ ra một bức tranh xinh đẹp đồng thời cũng vẽ ra khởi đầu của câu chuyện. Ngay mở đầu câu chuyện Sê Khốp đã khiến người ta nhận ra ngay giọng văn của ông đó là giọng văn hàm súc và cô đọng. Cô gái tên Nadia xuất hiện trong giọng văn “kiệm lời” ấy xinh xắn trong đám bụi tuyết đổ xuống từ bầu trời: “những hạt bụi tuyết nhỏ trắng xoá bám lên mấy món tóc xoắn vòng rủ hai bên thái dương nàng, lên hàng lông tơ mịn phía trên môi.” Vào một ngày mùa đông, một anh chàng hàng xóm đã rủ Nadia đi trượt tuyết, vốn là một cô gái dịu hiền và có phần hơi nhút nhát, Nadia sợ hãi nhưng chàng trai cứ năn nỉ, động viên mãi và cô đành chiều theo.
Bằng tất cả sự dũng cảm của mình, Nadia và nhân vật “tôi” đã trượt xuống. Chiếc xe bay vèo như phát đạn, gió quất vào như muốn ngắt đầu khỏi vai. Đúng vào giây phút sợ hãi nhất, chàng trai thầm thì vào tai nàng: “Nadia, tôi yêu em!” Xuống tới chân dốc, mặt nàng tái nhợt, thở thoi thóp vì chuyến mạo hiểm kinh hoàng, nhưng lúc hoàn hồn thì nàng trở nên băn khoăn về lời tỏ tình. Na-đi-a “không muốn tin rằng gió đã nói điều ấy” vì gió không biết nói, không thể nói được những điều ấy và nàng không biết ai là người nói nhưng trong tâm nàng nghĩ rằng “tôi” nói điều ấy và không muốn tin gió nói điều ấy. Hơn ai hết, có lẽ chính nàng đã đem lòng yêu nhân vật ‘tôi” nên nàng mong muốn và hi vọng không phải mình nghe nhầm. Cố vượt qua nỗi sợ hãi, nàng đề nghị chàng trai trượt lần nữa. Vẫn tái mét, nàng lẩy bẩy bước lên xe trượt cùng chàng lao xuống, và giữa lúc gió quất, giữa lúc kinh hoàng nhất chàng lại nói: “Nadia, tôi yêu em!”. Nadia vẫn đắm chìm trong lời nói ấy, nó giống như một liều thuốc giúp nàng bình tĩnh lại trong lúc hoảng loạn nhất, cho nàng cái cảm giác an toàn và ấm áp. Nàng cứ đắm chìm trong bốn tiếng: “Nadia, tôi yêu em!” ấy mà không phát giác được rằng đó chỉ là trò đùa cợt: “Ôi gương mặt đáng yêu của nàng mới ngộ nghĩnh làm sao!”. Câu văn như phơi bày tất cả rằng đây chỉ là một trò đùa của nhân vật “tôi”.
Câu nói đùa của chàng trai cứ thế tiếp tục những ngày sau đó, cô gái không còn sự bình yên nữa. Nàng không thể sống thiếu các cuộc trượt tuyết. Thực ra nàng vẫn khiếp hãi như trước, nhưng nàng đã nhiễm phải câu tỏ tình và mong khám phá điều bí ẩn đối với nàng: ai đã nói lời yêu nàng: chàng trai hay trận gió. Và có lần, quyết tìm ra bằng được, nàng mạo hiểm trượt một mình. Nhưng nàng có nghe được lời tỏ tình không, có lẽ chính nàng cũng chẳng rõ, vì nỗi sợ hãi khi trượt tuyết một mình đã làm nàng mất khả năng nhận biết mọi âm thanh. Người ta thường nói “Đàn ông yêu bằng mắt, đàn bà yêu bằng tai”, chỉ vì câu nói thì thầm ấy mà nàng làm đảo lộn hết những gì nàng vẫn hay thể hiện hằng ngày. Người kể chuyện suy đoán rằng một người sợ độ cao và nhát gan như Na-đi-a sẽ không trượt tuyết một mình vì mặt nàng nhìn trắng bệch, chân thì run rẩy khi đứng nhìn đỉnh đồi. Nhưng không! Thật điên rồ, hành động của Na-đi-a là nàng run rẩy, sợ hãi nhưng vẫn xăm xăm đi bước lên bậc thang lên đỉnh đồi và quyết định một mình trượt xuống dưới để xem có còn nghe thấy câu nói ấy không. Một lần nữa Nadia đã thực sự bị chìm vào trong mộng tưởng khi đã không nhận ra đó là một trò đùa. Đỉnh điểm là Hành động thờ ơ đứng nhìn Na-đi-a tự leo lên những bậc thang và trượt tuyết một mình trong nỗi sợ hãi của nhân vật “tôi” trong câu chuyện.
Đến lúc này có lẽ nhân vật “tôi” nhận ra rằng bản thân đã không còn khả năng đồng cảm với Nadia nữa. Tình cảm mà “tôi” dành cho Nadia phải chăng đã xuất phát từ tình cảm thầm mến, yêu quý. Câu nói “Nadia, tôi yêu em!” có thể là một phép thử dành cho Nadia? Cho dù là thế nào đi chăng nữa, cuối cùng tất cả nhân vật “tôi” cũng là người mất mát sau trò đùa của mình vì tuy anh bày ra trò đùa nhưng nó lại không mang đến kết quả tốt đẹp gì. Na-đi-a vẫn không biết ai là người nói câu nói ấy và anh vẫn chưa thật sự bày tỏ tấm lòng mình với nàng để rồi phải đi xa trong sự u sầu. Lời nói “Tôi yêu em!” ấy thật khác với lời yêu chân thành và cao thượng của Puskin:
“Tôi yêu em âm thầm, không hy vọng
Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen”
(Tôi yêu em)
Rồi mùa xuân đã đến với nước Nga, đập tan đi những khối băng tuyết đã bao phủ suốt những ngày đông, trò chơi trượt tuyết chấm dứt dường như lời đùa ấy cũng dần phải kết thúc. Nadia sầu, khổ não vì vắng những lời tỏ tình. Nhân vật “tôi” chuẩn bị lên thủ đô. Trước ngày ra đi, chàng đứng nép bên hàng rào nghé nhìn trộm sang nhà nàng, thấy nàng bước ra hiên, buồn bã. Hình ảnh “hàng rào” trong câu chuyện là một mấu chốt quan trọng, nó là một hình ảnh biểu tượng ngăn cách tâm hồn hai nhân vật. Hai con người, hai tâm hồn dù ở cùng một không gian địa lý nhưng lại không chạm được đến nhau, bị ngăn cách bởi một hàng rào mỏng manh. Tưởng chừng như đã rất gần nhau nhưng lại không thể nào tiến thêm một bước nữa. Những cơn gió xuân thổi tới, nàng rướn lên như cầu khẩn, và chàng rình chờ lúc một cơn gió thoảng qua khẽ nói: “Nadia, tôi yêu em!” Nàng reo lên, bừng sáng, giang hai tay đón cơn gió. Hình ảnh “hàng rào” tuy chỉ là một chi tiết nhỏ bé nhưng nó có ý nghĩa rất lớn trong câu chuyện như một mắt xích để người đọc thấy được sự chuyển biến tâm trạng của hai nhân vật sau trò đùa ấy.
Những lời yêu có phần nông nổi nhưng lại rụt rè và khó nói, đó là những lời thì thầm của tuổi non trẻ. Nhân vật “tôi” là một người trí thức, một người tinh tế, nhưng lại thiếu tự tin, đã không dám thổ lộ trực tiếp với nàng, mà phải mượn lời của gió, mà phải thì thầm từ xa. Thậm chí khi đã trưởng thành hơn, nhớ lại và kể lại, chàng cũng không dám thú nhận tình yêu của mình dành cho nàng, không dám thú nhận cả sự nuối tiếc của mình vì cô gái ấy đã đi lấy người khác, có con với người khác…“Người hàng xóm” của Nguyễn Bính cũng ngại ngùng như thế, chẳng mãnh liệt như thi sĩ Xuân Diệu từng viết:
“Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!”
(Vội vàng)
Trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình Sê Khốp vẫn luôn là một nhà nhân đạo sâu sắc, đúng như cái cách mà ông đã nhận định: “Một người nghệ sĩ chân chính là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy”. Nhà văn sau cùng để cho Nadia được hạnh phúc nhưng không phải với nhân vật “tôi”. Có lẽ đây là cái kết tốt nhất cho tình yêu “trò đùa này” cho dù ta có để cây bút đi theo Sê Khốp mãi mãi đây ắt vẫn là cái kết cuối cùng. A.I.Bogdanovich nhận ra âm hưởng trữ tình của tác phẩm như trong một bài thơ, và nhận xét về cái kết của truyện: “…trong đoạn kết dù sao vẫn xuất hiện cảm xúc buồn, như cuộc sống nói chung vẫn buồn như thế, nếu như trong cả cuộc đời, ký ức xúc động nhất và tuyệt vời nhất được lưu giữ lại chỉ là cái trò vớ vẩn của những ngày trẻ tuổi” . Và cứ thế “Một chuyện đùa nho nhỏ”sẽ chỉ là câu chuyện tình yêu của một chàng trai dành cho một cô gái trẻ trung, xinh đẹp và thật dễ thương.
Câu chuyện kết thúc với dấu ba chấm gợi ra cho ta đầy suy ngẫm. Đọc câu chuyện người ta sẽ nghĩ Nadia là điển hình cho sự cả tin, ngây ngô của “những người khờ dại chỉ biết yêu bằng tai”. Thế nhưng nếu không có ngày hôm ấy, có lẽ cả đời Nadia sẽ không hiểu được thế nào là yêu, và sẽ mãi sống như một cái bóng không biết đam mê, Xuân Diệu từng trải lòng:
“Yêu, là chết ở trong lòng một ít,
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu?”
Tưởng chừng như lòng nàng đã lụi đi một phần, nhưng chính góc lụi tàn ấy là nơi mà tình yêu bắt đầu nảy nở trong con người Nadia. M.Gorki đã nhận xét rất có lý rằng: Đọc Sêkhôp, chúng ta thấy “phảng phất đâu đây nụ cười buồn buồn của một tâm hồn biết yêu thương”, “tiếng thở dài khẽ mà sâu của một trái tim trong sạch”.
Đọc văn Sê khốp ta mới thấy tâm hồn mình được mở mang, đón nhận những điều giản dị nhưng thâm thuý. Khi những trang văn đóng lại đó mới là lúc văn học “sống”. Ta nâng mình lên đến gần với nhà văn và cùng viết cho tác phẩm một đường sống mới, ta tiếp nhận văn học bằng thứ tình cảm chân thành. Ta sẽ chẳng biết được trong suốt quá trình ấy văn học đã khơi lên trong ta những suy tư, những cảm xúc mới, có khi chưa hề nếm trải, có khi lại thấy quá quen. Nhưng tất cả đã đủ thấy quyền năng vô hạn của văn chương đối với đời sống, đó là giáo dục con người ta nhận thức.
Một lần nữa ta khẳng định được rằng tác phẩm của Sê khốp giống như viên kim cương đa diện lóng lánh, nếu từ một điểm nhìn, ta thấy nó ánh lên màu này, nhưng chỉ chết đi một chút thôi đã thấy chuyển sang màu khác. Và hơn thế văn chương Sê khốp đã khơi lên những lòng trắc ẩn, giáo dục con người.
Nghị luận Một chuyện đùa nho nhỏ (mẫu 3)
Sê-khốp là nhà văn “đạo đức nhất trong số các nhà văn cổ điển Nga”. Với 24 năm lao động nghệ thuật cần mẫn, Sê-khốp đã để lại di sản văn học phong phú, độc đáo, lột tả sâu sắc cuộc sống, tư tưởng, tình cảm của nhân dân Nga. Sáng tác của ông đã vươn tới những giá trị nhân đạo cao cả và trở thành di sản quý báu của văn hóa nhân loại. Ông là bậc thầy của truyện ngắn, là người nâng thể loại truyện ngắn tới mức hoàn thiện, mở lối khơi đường với cách viết độc đáo, sáng tạo. “Một chuyện đùa nho nhỏ” là một trong số tác phẩm tiêu biểu của Sê-khốp.
Truyện ngắn “Một chuyện đùa nho nhỏ” được in lần đầu trong tạp chí Dế mèn của Nga số 10 ngày 12/3/1886. Năm 1899 Sê-khốp chỉnh lí bổ sung một số câu chữ thay đổi phần kết truyện để đưa vào tuyển tập Truyện ngắn Sê-khốp. Bản in trên tạp chí năm 1886 có một kết thúc hài hước: sau đoạn gửi lời theo gió lần cuối, chàng trai “đi ra từ phía sau bụi rậm, không để Na-đi-a kịp bỏ tay xuống và há miệng vì ngạc nhiên, chạy tới bên cô…” và sau đó cưới cô làm vợ. Sê-khốp, trong bản chỉnh lí năm 1899, đã thay đổi kết truyện và tăng cường ý thức trăn trở về cuộc sống cho truyện ngắn này.
Câu chuyện Một chuyện đùa nho nhỏ được kể bằng lời người kể chuyện ngôi thứ nhất. Người kể chuyện trong truyện ngắn này là nhân vật tham gia hành động chính – nhân vật “tôi”.
Tình cảm của nhân vật “tôi” dành cho Na-đi-a không phải là tình yêu. Nó chỉ là một lời nói “đùa” xuất hiện trong lần trượt tuyết của nhân vật tôi và Na-đi-a. Cụ thể là nhân vật “tôi” vẫn còn quan sát được cảnh vật xung quanh, lời nói thì chỉ thì thào trong tiếng gió vun vút…..Sau lần đầu tiên khi nảy sinh ý định đùa với Na-đi- a những hành động, cử chỉ của nhân vật tôi cho thấy anh không còn đồng cảm với cô nữa là: Lần thứ hai, nhân vật “tôi” đã bắt đầu tính toán “đúng vào lúc chiếc xe lao nhanh nhất, tiếng gió gào rít ghê gớm nhất tôi lại nói”, và sau đó thể hiện “giọng nói thờ ơ lãnh đạm”…. Rồi trước khi nhắc lại câu nói trong lần trượ thứ ba, anh cẩn thận “lấy chiếc khăn tay che đi miệng đi rồi khẽ đằng hắng lên mấy tiếng”. Và cũng bắt đầu từ lần thứ nhất nhân vật tôi dường như đã mất đi sự đồng cảm với nhân vật Na-đi-a và những quan sát của anh về Na-đi-a cũng không còn xác đáng nữa. khi mà anh nghĩ là “Ai, gió hay là tôi đã thổ lộ với nàng những lời yêu đương ấy cũng không biết được. Nhưng với nàng giờ đây ai nói có lẽ cũng như nhau cả thôi”. Anh đã nhầm vì Na-đi-a vẫn quyết tâm đi tìm sự thật.
Chính khi đi một mình giữa đám đông nhân vật “tôi” mới thấy mình thật tầm thường. Đứng giữa đám đông anh ta không đủ dũng cảm đối diện với tình cảm của mình biến nó thành chuyện đùa, để hạnh phúc vốn rất gần lại vuột mất. Do không ý thức được hết sự hệ trọng của lời yêu thương biến tình yêu của Na-đi-a cũng là của mình thành “một chuyện đùa” nhân vật tôi đã bỏ lỡ cơ hội đón nhân hạnh phúc của mình. Có thể nói nhân vật tôi vừa là nạn nhân vừa là thủ phạm một chuyên đùa nho nhỏ do mình sắp đặt. Và cũng chính nhân vật “tôi” là người mất mát sau tất cả mọi chuyện. Khi kể về tình trạng cuộc sống của nhân vật Na-đi-a nhân vật tôi có một chút bồi hồi và ăn năn vì không hiểu sao mình lại làm ra điều đó. Và cũng có thể “tôi” đang vô cùng hối tiếc vì mình đã đánh mất một tình yêu trong sáng…
Na-đi-a là một cô gái vô cùng nhát gan cô không đủ tự tin để ngồi lên chiếc xe trượt tuyết. Vì với cô “nếu liều mạng lao xuống cái vực sâu kia thì không biết ra sao! Nàng sẽ chất mất sẽ phát điên mất”… Khi cô đồng ý lên xe cùng nhân vật “tôi” thì “gương mặt nàng tái nhợt”…“Gió” ở đây chính là tiếng lòng, khát vọng được yêu thương tiềm ẩn có lẽ đã vang lên trong lòng cô gái từ lâu. Trong khát vọng hạnh phúc, cô gái dường như vẫn nghe thấy những lời yêu thương ấy, song cô vẫn muốn đó không phải chỉ là “gió nói” mà phải là lời “anh ấy nói” như một sự thực khách quan để khẳng định hạnh phúc hiện hữu chứ không phải là ảo giác. Câu nói “Na-đi-a, Anh yêu em” có tác dụng rất lớn đối tâm trạng của cô nàng. Ban đầu, khi nghe tiếng nói đó cô đã vô cùng ngạc nhiên, khiến cô “băn khoăn cực điểm” vì không biết ai nói điều đó là anh hay tiếng gió? “Đó là câu hỏi của lòng tự trọng của danh dự của cuộc đời và niềm hạnh phúc – một câu hỏi rất hệ trọng, hệ trọng nhất trên cuộc đời”. Với cô không chỉ cảm thấy hạnh phúc khi nghe lời tỏ tình mà còn băn khoăn liệu lời yêu thương đó có tồn tại khách quan không hay chỉ là tiếng lòng của chính cô. Na-đi-a vô cùng băn khoăn “Không gió không thể nói được điều ấy! Mà mình không muốn tin rằng gió đã nói điều đó”. Bản thân cô khát vọng tình yêu thương, hạnh phúc cô khát khao lời nói đó là của anh.Và để kiểm chứng điều đó cô đã dũng cảm tự mình trải nghiệm thử leo lên trượt tuyết một mình. “Nàng bước ra khỏi xe trượt tuyết một mình một cách mệt nhọc gần như kiệt sức”. Có thể nói Na-đi- a vẫn không thoát khỏi sự sợ hãi thế nhưng cô vẫn nuôi hi vọng khát khao tìm sự thật. Khát khao tình yêu sự hạnh phúc của cô gái đã giúp cô vượt qua hết nỗi sợ hãi của bản thân.
Hình ảnh đối lập giữa Na-đi-a một mình đi giữa đám đông để trượt tuyết 1 mình với hình ảnh nhân vật “tôi” gợi cho người đọc nhiều suy ngẫm. Nếu nhân vật Na-đi-a dũng cảm tìm tình yêu thì nhân vật “tôi” lại trở nên vô cùng nhút nhát rụt rè khi không dám đối diện với tình cảm của mình. Để rồi chính bản thân anh đã làm vuột mất hạnh phúc tưởng chừng đã trong gang tấc của mình.
Cảm hứng chủ đạo của truyện ngắn xuất phát từ tình yêu thương, lòng đồng cảm, thấu hiểu giữa người với người. Trong cuộc sống, chúng ta phải thấu hiểu, yêu thương mọi người và sẵn sàng bày tỏ tình cảm một cách chân thành nhất.
Truyện ngắn sử dụng ngôi kể thứ nhất, nhân vật “tôi” kể lại và bộc lộ rõ nét những tính cách của bản thân. Đồng thời, nhà văn cũng xây dựng được tình huống truyện đặc sắc, nổi bật. Các chi tiết trong tác phẩm đầy gợi mở, lôi cuốn thu hút người đọc, ngôn ngữ giản dị, gần gũi, tạo sức sống lâu bền cho tác phẩm.
Nghị luận Một chuyện đùa nho nhỏ (mẫu 4)
Ngay từ khi còn là một sinh viên học ngành Y, An-tôn Sê-khốp bắt đầu sáng tác truyện ngắn và kịch. Với cách viết đặc biệt “truyện không có chuyện”, mở đầu thường dẫn thẳng vào khung cảnh câu chuyện, kết thúc thường mang đến cảm giác hụt hẫng “như chưa có chuyện gì xảy ra cả”, truyện ngắn của Sê-khốp đã để lại ấn tượng sâu đậm cho độc giả trên toàn thế giới. Trong đó, “Một chuyện đùa nho nhỏ” được coi là tác phẩm tiêu biểu. Thông qua hồi ức của nhân vật “tôi”, tác giả khéo léo bày tỏ suy nghĩ về sự chân thành của lời yêu thương.
Câu chuyện xoay quanh những lần trượt tuyết giữa “tôi” và cô gái có tên là Na-đi-a. Ở lần đầu tiên, trước khi chiếc xe dừng lại ở chân đồi, “tôi” đã kịp thì thào nói “Na-đi-a, anh yêu em”. Chính bởi câu nói ấy mà Na-đi-a loay hoay đi tìm sự thật. Cô bỏ qua nỗi sợ, tiếp tục rủ “tôi” cùng trượt tuyết. Vào lúc này, “tôi” không còn sự đồng cảm với Na-đi-a nữa. Anh ta canh chừng thời điểm gió gào rít to nhất rồi mới thì thầm nói “Na-đi-a, anh yêu em”. Sau tất cả, Na-đi-a vẫn không thể tìm ra nguồn gốc của lời yêu thương. Kết thúc truyện, nhà văn phác họa nên khung cảnh chia li khi “tôi” phải đi Pê-téc-bua cùng nỗi niềm trăn trở, suy tư mãi về sau. Có thể thấy, từ hồi ức về một kỉ niệm nhỏ bé ở quá khứ gắn liền với nhân vật “tôi”, Sê-khốp khéo léo đề cập đến sự chân thành trong cuộc sống, trong tình yêu. Đây cũng chính là chủ đề của tác phẩm.
Trước hết, nhân vật “tôi” không được miêu tả cụ thể về tên tuổi, ngoại hình hay tính cách. Mở đầu câu chuyện, nhà văn trực tiếp dẫn người đọc tới khung cảnh thường xuất hiện trở đi trở lại trong tác phẩm – một ngọn đồi cao. Tại nơi đây, “tôi” đã van nài Na-đi-a trượt tuyết cùng mình. Anh vừa đưa ra lời cam đoan “Tôi cam đoan với cô là chúng ta sẽ chẳng hề gì đâu”, vừa cố nài nỉ, đả kích tinh thần cô gái “Việc gì mà sợ! Cô phải biết sợ thế là nhát gan, xoàng lắm cô ạ!”. Sau khi thuyết phục được Na-đi-a, “tôi” đỡ cô vào xe rồi vòng tay qua giữ lấy cơ thể đối phương. Một hành động tưởng chừng như rất ga lăng. Ở lần trượt tuyết thứ nhất, khi chiếc xe lao vun vút trong gió mạnh, “tôi” đã thì thào nói “Na-đi-a, anh yêu em”. Lời yêu thương được cất lên bằng tiếng nói nhỏ nhẹ, tựa như gió thoảng qua tai. Bởi vậy, sau khi hết sợ hãi, Na-đi-a vô cùng hoài nghi và băn khoăn “Có phải anh nói ra những lời đó không? Có những lời đó hay không?”. Song, đối diện với cái nhìn dò xét từ Na-đi-a, “tôi” lại tỏ ra bình thản, đứng bên cạnh và nhìn chăm chú vào chiếc găng tay. Dường như “tôi” đang trốn tránh lời yêu thương, trốn tránh Na-đi-a. Hay phải chăng, anh ta không đủ dũng khí để đối diện với tình cảm của mình? Không ai biết rõ nhưng chắc chắn một điều, sau lần trượt tuyết này, “tôi” đã nảy ra ý định trêu đùa Na-đi-a. Đứng trước cặp mắt buồn râu nôn nóng bồn chồn, nhân vật “tôi” không hề cảm thấy thương xót mà chỉ thầm nghĩ “Ôi, gương mặt đáng yêu của nàng mới ngộ nghĩnh làm sao!”.
Tiếp đến, ở lần trượt tuyết thứ hai, “tôi” vẫn đỡ Na-đi-a lên xe. Thấy mặt cô nàng tái nhợt, toàn thân run rẩy nhưng anh không đưa tay ra giữ như lần đầu. Rút kinh nghiệm trước đó, “tôi” trông đợi “lúc chiếc xe lao nhanh nhất, tiếng gió gào ghê gớm nhất” rồi mới khẽ khàng thốt lên “Na-đi-a, anh yêu em”. Việc làm này tiếp tục diễn ra ở lần trượt tuyết thứ ba và những lần tiếp theo. Để tránh cái nhìn đăm đăm từ Na-đi-a, “tôi” còn làm hành động dùng khăn tay che miệng, đằng hắng lên mấy tiếng. Thay vì quan tâm tới sự sợ hãi của người bạn đồng hành, “tôi” chỉ chú tâm đến tiếng gió thổi và quãng đường trượt tuyết. Có vẻ như, anh ta coi việc đùa cợt là thứ gì đó vui sướng. Như vậy, khi biến lời yêu thương thành “một chuyện đùa”, “tôi” đã dần mất đi khả năng đồng cảm với Na-đi-a. Đồng thời, tự đẩy mình ra xa cô gái. “Tôi” nghĩ Na-đi-a sẽ từ bỏ việc truy tìm sự thật đằng sau câu nói “Na-đi-a, anh yêu em”. Nhưng không, Na-đi-a vẫn quyết tâm đi tìm sự thật còn “tôi” trở thành một người nhỏ bé trong đám đông.
Sau cùng, hành động đứng bên hàng rào và ghé nhìn qua khe hở ở cuối truyện đã cho ta thấy được tình cảnh éo le của “tôi”. Anh không trực tiếp thổ lộ mà tiếp tục chờ làn gió xuân thổi qua rồi thì thào nói câu quen thuộc. Vào thời khắc xuân sang, cuối cùng, “tôi” cũng tìm lại được sự giao cảm với khát khao hạnh phúc của Na-đi-a. Tiếc thay, anh không đủ dũng cảm để bày tỏ “tiếng lòng” của mình. Để rồi, sau này, khi “chuyện ấy đã qua lâu rồi”, tôi vẫn trăn trở không hiểu tại sao bản thân lại nói những lời đó và đùa cợt như thế. Đồng thời, nuối tiếc về mọi chuyện. Có thể nói, “tôi” đã không ý thức được tầm quan trọng, sự chân thành của lời yêu thương. Chính “tôi” là người biến tình yêu của mình, của Na-đi-a thành “một chuyện đùa nho nhỏ”. Kết cục, “tôi” phải nhận lấy mất mát sau tất cả mọi chuyện. “Tôi” vừa là thủ phạm, vừa là nạn nhân do chính câu chuyện mà bản thân sắp đặt và tạo nên.
Bên cạnh nhân vật “tôi”, nhà văn Sê-khốp còn hướng ngòi bút tới cô gái Na-đi-a. Trong tiếng Nga, tên của cô có nghĩa là niềm hi vọng. Cái tên đã góp phần thể hiện một phần con người Na-đi-a. Lần đầu nghe thấy câu nói “Na-đi-a, anh yêu em”, cô vô cùng băn khoăn “Có phải anh nói ra những lời đó không? Có những lời đó hay không?”. Cô nhìn “tôi” bằng ánh mắt chăm chăm, cảm xúc dường như có chút rối loạn. Để truy tìm nguồn gốc của lời yêu thương, Na-đi-a đã vượt lên nỗi sợ, rủ “tôi” cùng lao dốc. Cứ sau mỗi lần trượt tuyết, cô lại im lặng, nghĩ về điều bản thân nghe thấy. Gương mặt lúc nào cũng toát lên sự hoài nghi không biết ai đã nói câu “Na-đi-a, anh yêu em”. Trong thâm tâm Na-đi-a hiện lên vô vàn câu hỏi “Điều gì đã xảy ra? Ai nói những lời ấy? Anh ấy hay là chỉ do ta nghe được” và những phủ nhận “Không, gió không thể nói được những lời ấy! Mà mình cũng không muốn tin rằng gió đã nói những lời ấy”. Na-đi-a tỏ ra băn khoăn cực điểm về lời yêu thương. Cô hoài nghi nó có tồn tại hay không hay chỉ đơn thuần là tiếng lòng của chính cô mà thôi. Cô hi vọng câu nói kia là do “anh ấy nói” chứ không phải “gió nói”, để từ đó khẳng định điều bản thân nghe thấy là sự thực. Ở lần trượt tuyết một mình, dù mặt mũi tái nhợt, cả người run rẩy nhưng Na-đi-a vẫn ngồi lên chiếc xe. Cô gạt bỏ nỗi sợ tận sâu bên trong để quyết tâm truy tìm sự thực “thử xem có còn nghe thấy những lời ngọt ngào say đắm ấy nữa không”. Và vào chính thời khắc này, Na-đi-a đã biến “tôi” trở thành một kẻ tầm thường giữa đám đông. Có thể thấy, niềm khát khao hạnh phúc luôn dâng trào trong con người Na-đi-a.
Thông qua hai nhân vật “tôi” và Na-đi-a, tác giả khéo léo gửi gắm thông điệp về sự chân thành của tình yêu thương. Việc biến câu nói “Na-đi-a, anh yêu em” thành “câu chuyện đùa” đã khiến “tôi” bỏ lỡ cơ hội đón nhận hạnh phúc và nhận về sự tiếc nuối, day dứt. Câu nói đùa cợt ấy cũng góp phần thúc đẩy Na-đi-a đi tìm nguồn cơn sự thật. Như vậy, hai nhân vật chính dường như đứng ở thế đối lập nhau: một người đùa giỡn với tình yêu còn một người khát khao, trân trọng tình yêu.
Bằng ngôn từ giản dị, lời văn trong sáng cùng lối kể chuyện độc đáo – lời người kể xen lẫn với độc thoại nội tâm, Sê-khốp đã mang đến một câu chuyện thật hay và hấp dẫn. Từ đây, nhà văn mong muốn chúng ta sẽ biết sống, yêu thương một cách chân tình, thành tâm hơn. Đừng để mọi chuyện trở thành niềm tiếc nuối, day dứt khắc sâu trong tâm trí.
Đọc nhan đề “Một chuyện đùa nho nhỏ”, ta tưởng như đây sẽ là một câu chuyện nhẹ nhàng song hoàn toàn ngược lại. Hành động của nhân vật “tôi” đã nhắc nhở độc giả phải suy ngẫm, trăn trở nhiều hơn về cuộc sống, về những thứ bình dị quanh mình. Mong rằng, qua truyện ngắn này, mỗi người sẽ có cách ứng xử đúng mực và phù hợp.
III. Nghị luận Dưới bóng hoàng lan
Nghị luận Dưới bóng hoàng lan (mẫu 1)
Thạch Lam là một cây bút tiêu biểu của nhóm Tự lực văn đoàn, cũng là một nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam những năm 1930- 1945. Tuy sáng tác không nhiều nhưng những tác phẩm văn chương của Thạch Lam lại thấm đượm những giá trị nhân văn sâu sắc, những câu chuyện của đời sống vô cùng bình dị được nhà văn đưa vào tác phẩm với những điểm nhấn tạo thành những tác phẩm có giá trị, có sức hấp dẫn đặc biệt đối với bao thế hệ độc giả xưa- nay. Để tìm hiểu về phong cách, tư tưởng của nhà văn Thạch Lam, ta có thể phân tích thông qua truyện ngắn “Dưới bóng hoàng lan”.
“Dưới bóng hoàng lan” là một trong những truyện ngắn tiêu biểu của Thạch Lan, cốt truyện nhẹ nhàng, khung cảnh làng quê gần gũi nhưng người đọc vẫn cảm nhận được những cái độc đáo, mới lạ mà nhà văn Thạch Lam mang đến, đó chính là hương vị của con người, của tình người. Những tình cảm ngỡ như đơn sơ, giản dị nhưng lại vô cùng thầm kín, có sức lay động mạnh mẽ đến tâm thức, trái tim của người đọc, người nghe.
Truyện ngắn “Dưới bóng hoàng lan” viết về nhân vật Thanh thông qua một lần trở về quê hương, thăm bà, gặp lại những người anh luôn yêu thương, tôn trọng. Truyện ngắn còn là một khung cảnh đơn sơ, giản dị nhưng đầy chất thơ, thấm đượm hương vị của tình người. Thanh vốn mồ côi cha mẹ từ nhỏ, người thân yêu duy nhất của Thanh đó là bà, tuổi thơ của Thanh là một cuộc sống vất vả nhưng luôn tràn đầy hơi ấm, tình yêu, sự chở che của người bà. Do đó, với chàng thanh niên ấy mà nói, người bà vừa là người cha, người mẹ, cũng là người thân duy nhất của anh.
Từ khi Thanh lên thành phố công tác thì ngôi nhà vốn neo người của bà cháu anh càng trở nên hoang vắng, quạnh quẽ hơn “Yên tĩnh quá, không một tiếng động nhỏ trong căn vườn, tựa như bao nhiêu sự ồn ào ngoài kia đều ngừng lại trên bậc cửa”, dù xa nhà một thời gian dài nhưng mỗi lần trở về thăm quê thì ngôi nhà ấy vẫn chẳng có sự đổi thay nào, tựa như tình yêu thương nơi người bà vậy “ …cảnh tượng gian nhà cũ không có gì thay đổi, cũng y như ngày chàng đi khi xưa”. Sự tĩnh lặng của căn nhà bỗng gợi lên trong Thanh biết bao tư vị, khiến anh “…trở nên nghẹn họng”.
Chỉ qua những dòng đầu tiên của tác phẩm thôi nhưng chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy ở Thanh một tình yêu quê hương da diết, một thứ tình cảm gắn bó thiêng liêng với ngôi nhà, mà trên tất cả là với người bà mà anh rất mực yêu thương, kính trọng. Vì vậy mà mỗi lần về thăm quê, Thanh không tránh khỏi cảm giác bồi hồi, mừng rỡ, đó là thứ tình cảm của một người con xa quê khi được trở về nơi mái nhà thân yêu, nơi quê hương mình được sinh ra, được lớn lên “…Khi Thanh từ giã cái bức nóng của phố xã, bước chân vào ngôi nhà mát rượi của bà, gặp lại những gì thương mến sau hai năm xa cách. Sự chăm sóc ân cần của bà, hương ngọc lan dịu ngọt phảng phất đâu đây đem đến chàng sự nhẹ nhõm….” Đó là sự nhẹ nhõm của tâm hồn con người luôn yêu quê, hướng về quê hương.
Các trang văn của Thạch Lam luôn vậy, nhẹ nhàng, giản dị nhưng lại có sức lay động đến bình dị. Theo bước chân Thanh, người đọc như được hòa nhập làm một với nhân vật, cùng trải qua bao trạng thái, cảm xúc, từ bồi hồi, mừng rỡ đến hạnh phúc ngập tràn khi gặp lại người bà. Chỉ một câu nói của bà “Đi vào trong nhà không nắng cháu” khiến cho người đọc xúc động khôn nguôi, sự quan tâm dù rất nhỏ bé nhưng lại thể hiện được tình cảm, tấm lòng bao la của người bà đối với Thanh, luôn quan tâm đến cháu từ những thứ nhỏ nhặt nhất.
Vì vậy mà dù đã khôn lớn, trưởng thành nhưng khi ở bên bà Thanh luôn cảm thấy mình như một đứa nhỏ, được yêu thương, chăm sóc bởi bà: “Thanh đi bên bà, người thẳng, mạnh, cạnh bà cụ gầy còng. Tuy vậy, chàng cảm thấy chính bà che chở cho chàng, cũng như những ngày chàng còn nhỏ”. Thế mới nói tình cảm gia đình, mà ở đây là tình bà cháu thật vĩ đại, thiêng liêng, nó làm cho con người ta cảm thấy nhỏ bé, tâm hồn như được trở về tuổi thơ để đón nhận từng cử chỉ, từng quan tâm của những người mà ta yêu quý nhất.
Trở về thăm nhà sau hai năm xa quê, gặp lại bà, được nhận những yêu thương, quan tâm của bà, Thanh có cảm giác như được trở về với tuổi thơ “…tất cả những ngày thuở nhỏ trở lại với chàng”. Sự xa cách của thời gian cũng không thể làm đổi thay những cảnh vật ngôi nhà, càng không tác động được đến thứ tình cảm thiêng liêng, bền vững của tình bà cháu “…Thanh vắng nhà đã gần hai năm nay, vậy mà chàng có cảm giác như vẫn ở nhà tự bao giờ. Phong cảnh vẫn y nguyên, gian nhà vẫn tịch mịch và bà chàng vẫn tóc bạc phơ và hiền từ”.
Tình yêu nhẹ nhàng giữa Thanh và Nga cũng khiến cho người đọc cảm thấy xúc động bởi nó trong sáng, lại rất đáng yêu, qua những đoạn đối thoại của Thanh và Nga, lời yêu chưa từng được nói ra nhưng ta vẫn có thể cảm nhận được bao nhiêu tình ý chứa trong đó. Sự nhẹ nhàng, tinh tế khi Thanh cài lên mái tóc Nga bông hoa hoàng lan, theo tôi đó chính là khoảnh khắc lãng mạn, tinh tế của đôi lứa. Dù sau đó Thanh vẫn tiếp tục phải lên đường, Nga ở lại, mỗi năm lại tự cài lên mái tóc của mình bông hoa hoàng lan như khi Thanh đang ở bên cạnh. Tình yêu chưa lời ngỏ, chuyện tình chưa đi được đến hồi kết nhưng sự nhẹ nhàng của tình yêu ấy cũng đủ để lay động biết bao tâm hồn.
Chất thơ của truyện ngắn “Dưới bóng hoàng lan” còn được thể hiện rõ nét qua nhân vật người bà. Người bà tuy xuất hiện không hẳn nhiều nhưng qua vài chi tiết, những hành động, những lời nói quan tâm ta có thể cảm nhận trọn vẹn được tình cảm bao la của người ba dành cho người cháu yêu thương của mình. Từ lời quan tâm “Đi vào trong nhà không nắng cháu” đến lời thúc giục cháu đi rửa mặt rồi nghỉ ngơi “ Con rửa mặt đi, rồi đi nghỉ không mệt. Trời nắng thế này mà con không đi xe ư?….”. Sợ cháu mệt, bà sửa gối chiếu, dùng phất trần để phủi bụi trên giường, bà giục cháu nghỉ ngơi còn mình thì xuống bếp nấu ăn vì sợ cháu đói.
Người bà quan tâm từng việc nhỏ nhặt nhất của người cháu. Đối với Thanh khi ở bên bà lúc nào cũng có cảm giác được che chở, được quan tâm thì đối với bà, người cháu dù có lớn khôn đến đâu thì với bà lúc nào cũng là một đứa nhỏ cần được yêu thương, chăm sóc: “ …Ở đấy, bà chàng lúc nào cũng sẵn sàng chờ đợi để mến yêu chàng”. Tình yêu thương của bà giản dị nhưng thật thiêng liêng, cao quý biết bao!
Từng cử chỉ, hành động của bà đều khiến ta cảm động, bà luôn ân cần chăm sóc cho Thanh “Bà lại gần săn sóc buông màn, nhìn cháu và xua đuổi muỗi, gió quạt nhẹ trên mái tóc chàng”. Tuy chỉ được miêu tả qua một câu ngăn ngủi nhưng ta dường như còn cảm nhận được ánh mắt trìu mến, nụ cười ấm áp, hiền từ của người bà. Ánh mắt ấy là cả trời yêu thương, quan tâm đến đứa cháu làm cho Thanh “..cảm động ứa nước mắt”, còn đối với người đọc như được trở về với những kí ức bên người bà, mỉm cười hạnh phúc với những kỉ niệm thân yêu của chính mình.
Truyện ngắn “Dưới bóng hoàng lan” là một câu chuyện nhẹ nhàng, giản dị nhưng đầy tinh tế, sâu sắc, bởi nó mang đến cho người đọc cảm giác thư thái, nhẹ nhàng thông qua câu chuyện của Thanh. Sở dĩ nó mang lại cho con người biết bao cảm xúc yêu thương, trìu mến bởi nó khơi gợi được thứ tình cảm gắn bó, sâu kín ở mỗi người, đó là tình yêu quê hương, tình cảm gia đình, tình yêu đầu đời.
Nghị luận Dưới bóng hoàng lan (mẫu 2)
Thạch Lam là một cây bút được coi là hàng đầu của văn xuôi Việt Nam. Thạch Lam đã để lại rất nhiều tác phẩm có giá trị trong đó có tác phẩm “dưới bóng hoàng lan”. tác phẩm là truyện ngắn không có cốt truyện. Nó không kể một câu chuyện mà nó gợi sâu suy nghĩ. Thời gian đọng lại không gian tĩnh lặng hé lộ kín đáo bi kịch đời người màn người đọc phải cảm nhận kĩ mới cảm nhận được. Đó chính là cái thú vị cái đặc sắc của tác phẩm
Chuyện kể về một chàng trai mồ côi cha mẹ … một bà một cháu quấn quýt nhau. Thanh ra tỉnh làm rồi đi về hàng năm, các ngày nghỉ. Lần trở về này đã cách kỳ trước hai năm. Có phải đời sống thị thành đã nhiều lúc khiến Thanh quên bằng người bà tóc bạc phơ đang sống những ngày cuối cùng trong đời mỏi mắt trông chờ anh?đáp lại tiếng gọi bà ơi một cái bóng nhẹ từ bên trong vụt ra rơi xuống mặt bàn anh chàng định thần nhìn con mèo của nhà anh chàng. Thanh mỉm cười lại gần vuốt ve con mèo “Bà mày đâu”.
Cũng như bao lần Thanh trở lại ngôi nhà cũ nhưng dường như ngôi nhà thân thuộc ấy phần nào lại khiến cho anh chàng cảm thấy hồi hộp bồi hồi đến kì lạ khiến chàng thấy cảm động quá. Chốn Thanh về mọi thứ đều già cỗi và không đổi. Thời gian như quay ngược lại, không gian đứng lặng. Phong cảnh vẫn y nguyên, gian nhà vẫn tịch mịch và bà chàng vẫn tóc bạc phơ và hiền từ. Trong cảnh bình yên và thong thả của chốn xưa, một hình ảnh tươi mát hiện lên. Khu vườn xưa hiện lên trước mắt anh chàng với con đường Bát Tràng rêu phủ với những vòm ánh sáng lọt qua vòm cây với bức tường hoa thấp chạy thẳng đến đầu nhà với cả một mùi lá tươi non phảng phất trong không khí. Tất cả hiện lên trước mắt chàng thanh niên vốn quen thuộc nhưng lại rất mát mẻ và dịu dàng đối với người anh đến lạ thường. Và hình ảnh những cô thiếu nữ xinh xắn trong tà áo trắng, mái tóc đen lánh buông trên cổ nhỏ, bên cạnh mái tóc bạc trắng của bà chàng cũng khiến chàng thanh niên trẻ xốn xang và hơi dao động phần nào. Chàng cảm thấy không gian náo nhiệt ồn ào ngoài kia như đang dừng lại trên bậc cửa. Về quê sao ta có một cảm giác thanh bình yên ổn đến thế ta dường như không còn vướng bận bất cứ điều gì của cuộc sống nhộn nhịp ngoài kia mà chỉ còn biết thả hồn vào thiên nhiên và cảnh vật Có lẽ chính bởi.
“Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi”
Quê hương trong tâm hôn chàng trai Thanh chính là nơi mát mẻ tu dưỡng tâm hồn chàng. Đối với một số người về thăm quê hương như là một nghĩa vụ thì đối với một người thanh niên trẻ như Thanh thì mỗi phút giây được về với quê hương chính là những phút giây khiến chàng bình yên thanh thản nhất của cuộc đời. Tránh xa cuộc sống ồn ào của nơi đô thị náo nhiệt chàng thanh niên luôn mong muốn được về với quê hương với bến bờ hạnh phúc trong tâm hồn anh ấy. Về quê hương anh nhớ lắm hình ảnh về bà và cả cô bé Nga hàng xóm. Đó là hình ảnh cô bé Nga hồn nhiên vui tươi. Có lẽ chính chàng đang tự hỏi liệu đã phải là tình yêu chưa khi cô Nga nói khe khẽ Những ngày em đến đây hái hoa, em nhớ anh quá. Văn Thạch Lam đặc biệt hay ở những lời thân thương vô cùng giản dị như thế của con người. Thanh chẳng biết nói gì; chàng vít một cành lan xuống giữ trong tay để Nga tìm hoa, rồi nhẹ nhàng buông ra cho cành lại cong lên. Và trong đêm khuya khi sắp chia tay: Không lưỡng lự, Thanh cầm lấy tay Nga, để yên trong tay mình, Nga cũng đứng lên yên lặng. Lâu lâu, Nga rút tay khẽ nói: Thôi, em về. Và có lẽ anh nhớ nhất là những kỉ niệm về người bà dấu yêu chàng khẽ gọi bà “bà ơi” và hình ảnh bà bắt đầu xuất hiện rồi in dần vào trong mắt người cháu nhớ bà da diết. Bà xuất hiện dưới giàn hoa thiên lí với mái tóc bạc phơ chống gậy trúc. Bà của Thanh đây bà thật hiền từ và nhân hậu hỏi cháu đầy yêu thương “cháu đã về đấy ư” và nhắc nhở cháu đầy hiền từ “đi vào trong nhà không nắng cháu”. Bà yêu thương cháu quá coi cháu vẫn như cậu bé thủa nào non nớt cần sự che chở của bà. Đọc những câu thơ này khiến ta như muốn được ùa vào lòng bà nghe những lời yêu thương của bà khiến ta như đang được trở về với tuổi thơ với quê hương thân thương
Có cái gì đó như sự đối lập giữa cái dáng đi thẳng thắn của Thanh và dáng đi khom khom của bà. Nhưng sự đối lập ấy không hiện thanh cảm thấy có sự xa cách mà hơn nữa anh còn cảm thấy như đang được bà che chở vào lòng khiến anh cảm thấy thật nhẹ nhõm. Thanh vào nhà ngủ bà vẫn chăm sóc anh từng li từng tí anh giả vờ ngủ để được sự chăm sóc của bà, Thanh không dám động đậy để tận hưởng được cái yêu thương cái tình thương của bà mà anh ít khi được hưởng. Chàng cứ nhắm mắt như vậy hưởng thụ làn gió mát lành từ cánh tay bà đem lại. Tuy nhiên một nhà văn lớn như Thạch Lam không bao giờ lại cất công viết một cái gì vô thưởng vô phạt. Chắc chắn ông viết Dưới bóng hoàng lan bởi ông cảm thấy một cái gì đó, một cái gì đó không thấy được và không hiểu được nhưng rõ ràng là đang ập tới, đã cận kề những tháng ngày dường như là cực kỳ tĩnh lặng của buổi đương thời cuộc đời ông. Vì vậy nỗi buồn của Dưới bóng hoàng lan thực ra là nỗi đau thương, một nỗi đau thương âm thầm, một niềm tiên cảm về cuộc đời tác giả và cả hoàn cảnh của đất nước nữa những năm tháng sau đó.
Thật sự là nỗi đau buồn, dù rằng không thể nhận thấy. Tới cổng, Thanh còn đứng lại nhìn cây hoàng lan và các cây khác trong vườn. Bác Nhân nhanh nhảu cầm đỡ va ly cho chàng. Thanh dặn khẽ: Bảo tôi có lời chào cô Nga nhé. Mối tình không ngỏ lời, không tiễn đưa, không gặp được nhau lần cuối. Tất cả đều trở thành những mảnh trời xanh tan tác. Thanh cúi nhìn bóng chàng lay động trong lòng bể với mảnh trời xanh tan.
Ngoài ra, chất thơ trong truyện ngắn “Dưới bóng Hoàng Lan” còn được thể hiện qua những hình ảnh mang tính chất biểu tượng trữ tình – hình ảnh cây Hoàng Lan. Hình ảnh này ta có thể hiểu đó là hình ảnh của cây Hoàng Lan nơi vườn nhà Thanh nhưng cũng có thể hiểu đó chính là hình ảnh người bà của chàng. Bà thương cháu tha thiết vì đứa cháu tội nghiệp không được như người, đã mất cả cha lẫn mẹ. Bà như cây lan thoang thoảng chở che cho chàng mỗi khi chàng trở lại nhà mình, trở lại khu vườn đầy ắp kỉ niệm của mình. Bà lặng lẽ che chở, rủ bóng mát xuống đời cháu nhà Hoàng Lan đã rủ bóng, lặng lẽ đem hương thơm đến bên chàng lúc chàng đi xa về. Bà chính là cây Hoàng Lan che chở cho cả mối tình đầu tiên của Thanh và Nga. Lan chứng nhân cho tuổi thơ của hai người cũng giống như bà đã trông thấy cháu lớn lên từng ngày trong vòng tay yêu thương của mình.
Tác phẩm như đưa ta về với tuổi thơ với người bà ấm áp với hình ảnh quê hương gần gũi đậm đà thân thương. Tác phẩm khiến người đọc nhớ thêm về quê hương nơi có những kỉ niệm gắn với tuổi thơ ta.
Nghị luận Dưới bóng hoàng lan (mẫu 3)
Khi nhận xét về Thạch Lam, nhà văn Nguyễn Tuân đã từng viết rằng: “Lời văn Thạch Lam nhiều hình ảnh, nhiều tìm tòi, có một cách điệu thanh thản, bình dị và sâu sắc…Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và từng trải về sự đời.”. Quả đúng là như vậy, đọc trang văn của Thạch Lam, độc giả luôn có cảm giác thư thái và nhẹ nhàng. Trong truyện “Dưới bóng hoàng lan”, chúng ta như được đắm mình vào không gian bình dị, thân thuộc, nơi mà ở đó luôn có những người thân yêu chờ ta trở về.
Câu chuyện xoay quanh về một lần thăm nhà của nhân vật Thanh. Thanh đi làm ăn xa trên tỉnh, nay anh mới về thăm bà. Trong khung cảnh bình dị của ngôi nhà, những hình ảnh quen thuộc hiện lên trong tâm trí anh. Dưới bóng hoàng lan, anh nhớ về kỉ niệm ấu thơ khi bên bà. Cũng vào lần về lần này, anh gặp lại Nga, người bạn thuở thơ ấu. Anh và Nga đã có một mối tình chớm nở. Sau vài ngày ở nhà, anh trở lại tỉnh để tiếp tục công việc. Vào ngày đi, anh nghĩ mình sẽ trở về thường xuyên. Điểm đặc biệt là tác phẩm không có cốt truyện. Dẫu vậy, nó vẫn khiến cho người đọc không thể rời mắt hay bỏ ngang bởi lời văn quá đẹp đẽ và thơ mộng. Văn bản cho thấy giá trị của tình cảm gia đình đối với mỗi cá nhân. Điều này được thể hiện rõ qua cảm nhận của nhân vật Thanh.
Cảm xúc của Thanh khi trở về nhà là tâm trạng của người con đi xa nay được trở về với mái nhà, gia đình thân yêu. Lúc bước vào khu vườn của bà, anh cảm thấy “mát hẳn người”. Khung cảnh quê hương hiện lên thật tươi đẹp, thanh bình qua hình ảnh “ánh sáng lọt qua vòm cây xuống nhảy múa theo chiều gió” cùng “mùi lá non phảng phất”. Anh thong thả đi dọc “tường hoa thấp chạy thẳng đến đầu nhà”. Bước lên thềm, nhìn vào nhà, anh thấy “bóng tối dịu và man mát”. Khi đã quen rồi, Thanh thấy mọi thứ không có gì thay đổi, vẫn y nguyên như ngày anh đi. Cảnh tượng ấy khiến anh không thể nói thành lời, mãi mới cất được tiền gọi khẽ “bà ơi”. Tất cả đã tạo nên sự khác biệt giữa không gian bên trong và bên ngoài khu vườn. Không gian bên trong là không gian của kí ức ngọt ngào, của tình yêu thương và sự ấm áp. Đó là điều mà không gian xô bồ, hỗn loạn bên ngoài khu vườn không bao giờ có được. Cảm nhận được sự khác biệt ấy, Thanh thấy tâm hồn mình được nâng đỡ, xoa dịu sau những ồn ào, mệt mỏi của đời sống phố thị.
Trong khoảnh khắc gặp lại bà, Thanh như vỡ òa cảm xúc, “Thanh cảm động và mừng rỡ, chạy lại gần.”. Ở bên bà, anh cảm thấy mình thật nhỏ bé. Dường như, có sự đối lập giữa một bên là dáng người của Thanh còn một bên là cái lưng còng của bà. Tuy nhiên, nó không khiến cho Thanh cảm thấy xa cách, mà trái lại, anh cảm thấy mình được chở che. Mỗi lần trở về, Thanh đều cảm thấy bình yên và thong thả vì anh biết ở nhà luôn có bà chờ mong, “Căn nhà với thửa vườn này đối với chàng như một nơi mát mẻ và hiền lành, ở đấy bà chàng lúc nào cũng sẵn sàng chờ đợi để mến yêu chàng”. Dù đã lớn, nhưng trong con mắt của bà, Thanh vẫn là cậu bé ngày nào. Bà vẫn “không thôi phẩy chiếc phất trần lên đầu giường”, “sửa chiếu và xếp lại gối”. Trong khoảnh khắc, mùi hương của cây hoàng lan làm anh nhớ lại kí ức thời thơ bé, “Thanh nhắm mắt ngửi hương thơm và nhớ đến cái cây ấy chàng thường hay chơi dưới gốc nhặt hoa. Đã từ lâu lắm, ngày mới có căn nhà này, ngày cha mẹ chàng hãy còn. Rồi đến ngày một bà một cháu quấn quýt nhau.”. Nghĩ về quá khứ, Thanh thấy tâm hồn mình trở nên nhẹ nhõm “như vừa tắm ở suối”.
Nỗi xúc động càng trào dâng khi Thanh nhận được tình yêu thương của bà. Biết bà đi vào, anh giả vờ nằm ngủ. Bà tới gần “săn sóc buông màn, nhìn cháu và xua đuổi muỗi”. Hành động của bà chan chứa biết bao nỗi thương yêu. Thấu hiểu được tình cảm của bà, anh nằm yên, không dám động đậy, chờ cho đến khi bà đi ra. Tình thương vô bờ ấy khiến Thanh “cảm động gần ứa nước mắt”. Dòng cảm xúc miên man đan xen giữa quá khứ và hiện tại cho thấy Thanh cũng là một người rất nhạy cảm, tinh tế.
Bên cạnh tình cảm gia đình, ta còn thấy được tình cảm lứa đôi vô tư, trong sáng. Tình cảm của Thanh và Nga cũng có sự pha trộn giữa kỉ niệm đẹp thời thơ ấu với những ngọt ngào, ý nhị của tình yêu. Khi nghe thấy điệu cười quen thuộc, anh “lẳng lặng ngồi dậy, tì trên cửa sổ, cúi mình nhìn ra phía ao”. Bóng cây hoàng lan đã gợi nhắc anh về cô bé Nga ngày trước. Anh không chần chừ “chạy vùng xuống nhà ngang rồi vui vẻ gọi “cô Nga””. Thanh vô tư ăn cơm cùng Nga, có lúc còn lầm tưởng Nga là em ruột của mình. Dẫu vậy, ở Thanh cũng có chút ngại ngùng của người con trai biết yêu. Khi cùng Nga đi dưới bóng hoàng lan, anh “nhớ lại đôi bàn chân xinh xắn, lấm tấm cát” của Nga ngày còn nhỏ rồi bất giác mỉm cười. Dắt Nga đi thăm vườn, Thanh cảm thấy mái tóc Nga thoảng thoảng mùi hoàng lan. Nghe thấy câu nói của Nga, Thanh không biết nói gì, vít cành lan ở trong tay để cô tìm hoa. Những ngượng ngùng ấy đã được thổi bùng lên thành cảm xúc thương yêu. Trước hôm về tỉnh, Thanh tiễn Nga ra cổng. Anh đã cầm lấy tay Nga và để yên trong tay mình. Trong khoảnh khắc ấy, Thanh cảm thấy có điều gì đó dịu ngọt trong tâm hồn.
Có lẽ, nỗi bâng khuâng, lưu luyến của nhân vật được thể hiện rõ nhất khi Thanh lên tỉnh. Anh không đi ngay mà ngoảnh lại nhìn cây hoàng lan và các cây khác trong vườn. Anh thấy nửa vui nửa buồn. Anh biết rằng căn nhà vẫn ở đó, vẫn có hình dáng bà thân thuộc mong ngóng anh. Thanh còn nghĩ đến cả Nga, “biết rằng Nga vẫn sẽ đợi chàng, vẫn nhớ mong chàng như ngày trước”.
Hình ảnh cây hoàng lan trở đi trở lại trong văn bản chứa đựng nhiều ý nghĩa. Hình ảnh này có thể hiểu là hình ảnh cây hoàng lan trong vườn, cũng có thể hiểu là hình ảnh người bà tảo tần, giàu tình yêu thương. Bà cũng như cây hoàng lan, tỏa bóng che chở cho cháu, che chở cho cả mối tình đầu tiên giữa cháu và cô bé Nga cạnh nhà. Hoàng lan chứng kiến sự trưởng thành của hai đứa như bà trông thấy cháu trưởng thành, lớn khôn trong vòng tay yêu thương.
Với ngôn từ tinh tế, lối kể chuyện nhẹ nhàng, giọng văn tha thiết, dịu dàng, cùng sự đan xen giữa quá khứ với hiện tại, Thạch Lam đã đưa người đọc trở về tuổi thơ tươi đẹp với người bà ấm áp và hình ảnh quê hương thân thuộc. Tác phẩm như một lời nhắc nhẹ nhàng đối với những đứa con xa nhà lâu ngày chưa trở về thăm quê.
Nghị luận Dưới bóng hoàng lan (mẫu 4)
Thạch Lam là nhà văn nổi tiếng từ trước Cách mạng tháng Tám, trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Ông viết nhiều thể loại nhưng chỉ thành công ở truyện ngắn. Dưới bóng hoàng lan là truyện ngắn mà tôi thích hơn cả. Bởi ở đó, Thạch Lam đã tạo ra những cảm xúc e ấp và êm đềm cho tác phẩm.
Thanh, chàng trai nhân vật chính mồ côi cha mẹ, sống quấn quýt với người bà từ nhỏ trong căn nhà. Lớn lên Thanh ra tỉnh làm, rồi đi đi, về về với bà trong những dịp nghỉ. Lần trở lại nhà này cách kỳ trước hai năm. Thanh cũng giống bao người trai trẻ ở quê lớn lên đi học rồi ra thành phố làm việc. Cuộc sống thị thành náo nhiệt vui vẻ đã khiến Thanh quên người bà đang sống ở quê mãi chờ mong anh. Lần này về Thanh lách cánh cửa gỗ để khép nhẹ nhàng bước qua cổng vào sân. Một cảm xúc êm đềm đến với Thanh. Chàng thấy mát hẳn cả người trên con đường lát gạch bát tràng rêu phủ, những vòng ánh sáng lọt qua vòm cây xuống nhẩy múa theo chiều gió. Một mùi lá tươi non phảng phất trong không khí. Thanh rút khăn lau mồ hôi trên trán , bên ngoài trời nắng gắt , rồi thong thả đi bên bức tường hoa thấp chạy thẳng đến đầu nhà. Yên tĩnh quá, không một tiếng động nhỏ trong căn vườn, tựa như bao nhiêu sự ồn ào ở ngoài kia đều ngừng lại trên bậc cửa.
Thanh bước lên thềm, đặt vali trên chiếc trường kỷ, rồi ngó đầu nhìn vào trong nhà: bóng tối dịu và man mát loáng qua những màu sắc rực rỡ chàng đem ở ngoài trời vào; Thanh chưa nhìn rõ thấy gì cả; một lát, quen bóng tối, chàng mới nhận thấy cảnh tượng gian nhà cũ không có gì thay đổi, cũng y nguyên như ngày chàng đi xưa. Sự yên lặng trầm tịch đến nỗi Thanh trở nên nghẹn họng; mãi mãi chàng mới cất được tiếng lên gọi khẽ: Bà ơi. Đáp lại tiếng gọi bà ơi, một cái bóng lẹ làng từ trong vụt ra rơi xuống mặt bàn. Thanh định thần nhìn: con mèo của bà chàng. Con mèo già vẫn chơi đùa với chàng ngày trước. Con vật nép chân vào mình khẽ phe phẩy cái đuôi, rồi hai mắt ngọc thạch ngước lên nhìn người. Thanh mỉm cười lại gần vuốt ve con mèo: Bà mày đâu?
Thanh bước xuống giàn thiên lý. Có tiếng người đi, rồi bà chàng, mái tóc bạc phơ, chống gậy trúc, ở ngoài vườn vào. Thanh cảm động và mững rỡ, chạy lại gần. Cháu đã về đấy ư? Lần nào về với bà, Thanh cũng thấy bình yên và thong thả. Căn nhà với thuở vườn này đối với chàng như một nơi mát mẻ và hiền lành
Như vậy bao trùm tác phẩm là cảm xúc êm đềm. Thanh thấy mọi thứ không thay đổi. Thời gian như quay ngược lại, không gian đứng lặng. Phong cảnh ngoài sân trong nhà vẫn y nguyên, gian nhà vẫn tịch mịch, người bà vẫn tóc bạc phơ hiền từ và đặc biệt cô bạn gái xinh xắn trong tà áo trắng mái tóc đen lánh buông trên cổ nhỏ rất dễ thương. Về sống ở chốn quê Thanh thấy tâm hồn nhẹ nhõm tươi mát như vừa tắm ở suối. Chàng tắm trong cái không khí tươi mát này. Những ngày bận rộn ở tỉnh giờ xa quá. Truyện viết đã hơn 70 năm, phố thị ngày ấy chưa ồn ào lắm. Bây giờ không những ồn ào mà còn ô nhiễm nữa. Con người gày nay sống trong thành phố luôn muốn tìm sống với một không gian êm đềm. Chính vì vậy mà truyện Dưới bóng hoàng lan vẫn mới như thường.
Tình yêu ở trong truyện cũng e ấp êm đềm. Thanh với Nga đôi bạn hàng xóm thân với nhau từ nhỏ. Thanh lên tỉnh làm việc, ở nhà Nga vẫn qua lại với bà. Lần nào về Thanh cũng gặp Nga sang chơi. Lần này phụ cơm xong, Nga xin về. Thanh không cho mà giữ lại cùng ăn cơm. Một bữa cơm với cảm xúc tình yêu e ấp và êm đềm. Nga vén áo ngồi bên cạnh bà cụ, nhưng nàng chỉ ăn nhỏ nhẻ, cầm chừng, và buông đũa luôn để xới cơm cho Thanh. Bữa cơm vui quá. Thanh ăn rất ngon miệng, lòng thư thái và sung sướng. Thỉnh thoảng chàng nhìn đôi môi thắm của Nga, hai má hồng. Và nụ cười tươi nở, nàng nhìn lại Thanh, một chút thôi, nhưng bao nhiêu âu yếm.
Bữa ăn xong. Thanh với Nga đã trở lại thân mật như khi còn nhỏ. Thanh dắt nàng đi thăm vườn với một tình yêu e ấp êm đềm. Trong vườn có “cây hoàng lan cao vút, cành lá rủ xuống như chào đón hai người. Có lúc gần nhau, Thanh thấy mái tóc Nga thoang thoảng thơm như có giắt hoàng lan. Nhưng hoa lan chưa rụng, vẫn còn tươi xanh ở trên cành, Nga bảo Thanh: Những ngày em đến đây hái hoa, em nhớ anh quá. Thạch Lam đã tạo cho Thanh cái cảm xúc e ấp bằng cách Thanh chẳng biết nói gì; chàng vít một cành lan xuống giữ ở trong tay để Nga tìm hoa, rồi nhẹ nhàng buông ra cho cành lại cong lên. Nắng soi vào vai hai người, nhưng dưới chân đất vẫn mát như xưa”.
Ðêm ấy, một bà, một cháu với một cô láng giềng chuyện trò dưới bóng đèn mãi tới khuya khi trăng lên thì mới dứt. Tình yêu trong cảnh chia tay cũng rất e ấp êm đềm. Thanh tiễn Nga về ,ra đến cổng, đi qua hai bên bờ lá đã ướt sương. Mùi hoàng lan thoang thoảng bay trong gió ngát. Không lưỡng lự, Thanh chủ động cầm lấy tay Nga, để yên trong tay mình, Nga cũng đứng yên lặng. Lâu lâu, Nga rút tay sẽ nói: Thôi em về.Thời gian như chậm lại. Rồi sau đó cả hai chia tay. Nga về nhà mình. Còn Thanh đi trở vào rất thong thả. Có cái gì dịu ngọt chăng tơ ở đâu đây, khiến chàng vương phải. Tình yêu của cả hai không như ta nghĩ. Nó cứ e ấp gợi cảm.
Sáng hôm sau, Thanh đã phải lên tỉnh. Thanh cầm mũ đứng nghe lời khuyên bảo ân cần của bà dưới giàn hoa lý. Tới cổng, Thanh còn đứng lại nhìn cây hoàng lan và các cây khác trong vườn. Bác Nhân nhanh nhảu cầm đỡ vali cho chàng, Thanh dặn khẽ: Bảo tôi có nhời chào cô Nga nhé.
Rồi chàng bước ra đi nửa buồn mà lại nửa vui. Thanh nghĩ đến không gian dịu mát của căn nhà và tình cảm chăm sóc mà bà dành cho mình.Thanh cũng biết rằng Nga sẽ vẫn đợi chàng, vẫn nhớ mong chàng như ngày trước. Mỗi mùa cô lại giắt hoàng lan trong mái tóc để tưởng nhớ mùi hương.
Đúng là một tình yêu không lời ngỏ cầu hôn, không một nụ hôn âu yếm, cũng không tiễn đưa nhau lên đường. Tình yêu ấy, đến văn học cổ ta cũng ít thấy. Chỉ có ở Thạch Lam. Nó cứ e ấp, lửng lơ, êm đềm, giới hạn, dễ thương và sâu sắc.
Nghị luận Dưới bóng hoàng lan (mẫu 5)
Thạch Lam là một cây bút tiêu biểu của nhóm Tự lực văn đoàn, cũng là một nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam những năm 1930- 19Tuy sáng tác không nhiều nhưng những tác phẩm văn chương của Thạch Lam lại thấm đượm những giá trị nhân văn sâu sắc, những câu chuyện của đời sống vô cùng bình dị được nhà văn đưa vào tác phẩm với những điểm nhấn tạo thành những tác phẩm có giá trị, có sức hấp dẫn đặc biệt đối với bao thế hệ độc giả xưa- nay. Để tìm hiểu về phong cách, tư tưởng của nhà văn Thạch Lam, ta có thể phân tích thông qua truyện ngắn “Dưới bóng hoàng lan”.
“Dưới bóng hoàng lan” là một trong những truyện ngắn tiêu biểu của Thạch Lan, cốt truyện nhẹ nhàng, khung cảnh làng quê gần gũi nhưng người đọc vẫn cảm nhận được những cái độc đáo, mới lạ mà nhà văn Thạch Lam mang đến, đó chính là hương vị của con người, của tình người. Những tình cảm ngỡ như đơn sơ, giản dị nhưng lại vô cùng thầm kín, có sức lay động mạnh mẽ đến tâm thức, trái tim của người đọc, người nghe.
Truyện ngắn “Dưới bóng hoàng lan” viết về nhân vật Thanh thông qua một lần trở về quê hương, thăm bà, gặp lại những người anh luôn yêu thương, tôn trọng. Truyện ngắn còn là một khung cảnh đơn sơ, giản dị nhưng đầy chất thơ, thấm đượm hương vị của tình người. Thanh vốn mồ côi cha mẹ từ nhỏ, người thân yêu duy nhất của Thanh đó là bà, tuổi thơ của Thanh là một cuộc sống vất vả nhưng luôn tràn đầy hơi ấm, tình yêu, sự chở che của người bà. Do đó, với chàng thanh niên ấy mà nói, người bà vừa là người cha, người mẹ, cũng là người thân duy nhất của anh.
Từ khi Thanh lên thành phố công tác thì ngôi nhà vốn neo người của bà cháu anh càng trở nên hoang vắng, quạnh quẽ hơn “Yên tĩnh quá, không một tiếng động nhỏ trong căn vườn, tựa như bao nhiêu sự ồn ào ngoài kia đều ngừng lại trên bậc cửa”, dù xa nhà một thời gian dài nhưng mỗi lần trở về thăm quê thì ngôi nhà ấy vẫn chẳng có sự đổi thay nào, tựa như tình yêu thương nơi người bà vậy “…cảnh tượng gian nhà cũ không có gì thay đổi, cũng y như ngày chàng đi khi xưa”. Sự tĩnh lặng của căn nhà bỗng gợi lên trong Thanh biết bao tư vị, khiến anh “…trở nên nghẹn họng”.
Chỉ qua những dòng đầu tiên của tác phẩm thôi nhưng chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy ở Thanh một tình yêu quê hương da diết, một thứ tình cảm gắn bó thiêng liêng với ngôi nhà, mà trên tất cả là với người bà mà anh rất mực yêu thương, kính trọng. Vì vậy mà mỗi lần về thăm quê, Thanh không tránh khỏi cảm giác bồi hồi, mừng rỡ, đó là thứ tình cảm của một người con xa quê khi được trở về nơi mái nhà thân yêu, nơi quê hương mình được sinh ra, được lớn lên “…Khi Thanh từ giã cái bức nóng của phố xã, bước chân vào ngôi nhà mát rượi của bà, gặp lại những gì thương mến sau hai năm xa cách. Sự chăm sóc ân cần của bà, hương ngọc lan dịu ngọt phảng phất đâu đây đem đến chàng sự nhẹ nhõm….” Đó là sự nhẹ nhõm của tâm hồn con người luôn yêu quê, hướng về quê hương.
Các trang văn của Thạch Lam luôn vậy, nhẹ nhàng, giản dị nhưng lại có sức lay động đến bình dị. Theo bước chân Thanh, người đọc như được hòa nhập làm một với nhân vật, cùng trải qua bao trạng thái, cảm xúc, từ bồi hồi, mừng rỡ đến hạnh phúc ngập tràn khi gặp lại người bà. Chỉ một câu nói của bà “Đi vào trong nhà không nắng cháu” khiến cho người đọc xúc động khôn nguôi, sự quan tâm dù rất nhỏ bé nhưng lại thể hiện được tình cảm, tấm lòng bao la của người bà đối với Thanh, luôn quan tâm đến cháu từ những thứ nhỏ nhặt nhất.
Vì vậy mà dù đã khôn lớn, trưởng thành nhưng khi ở bên bà Thanh luôn cảm thấy mình như một đứa nhỏ, được yêu thương, chăm sóc bởi bà: “Thanh đi bên bà, người thẳng, mạnh, cạnh bà cụ gầy còng. Tuy vậy, chàng cảm thấy chính bà che chở cho chàng, cũng như những ngày chàng còn nhỏ”. Thế mới nói tình cảm gia đình, mà ở đây là tình bà cháu thật vĩ đại, thiêng liêng, nó làm cho con người ta cảm thấy nhỏ bé, tâm hồn như được trở về tuổi thơ để đón nhận từng cử chỉ, từng quan tâm của những người mà ta yêu quý nhất.
Trở về thăm nhà sau hai năm xa quê, gặp lại bà, được nhận những yêu thương, quan tâm của bà, Thanh có cảm giác như được trở về với tuổi tthow “…tất cả những ngày thuở nhỏ trở lại với chàng”. Sự xa cách của thời gian cũng không thể làm đổi thay những cảnh vật ngôi nhà, càng không tác động được đến thứ tình cảm thiêng liêng, bền vững của tình bà cháu “…Thanh vắng nhà đã gần hai năm nay, vậy mà chàng có cảm giác như vẫn ở nhà tự bao giờ. Phong cảnh vẫn y nguyên, gian nhà vẫn tịch mịch và bà chàng vẫn tóc bạc phơ và hiền từ”.
Tình yêu nhẹ nhàng giữa Thanh và Nga cũng khiến cho người đọc cảm thấy xúc động bởi nó trong sáng, lại rất đáng yêu, qua những đoạn đối thoại của Thanh và Nga, lời yêu chưa từng được nói ra nhưng ta vẫn có thể cảm nhận được bao nhiêu tình ý chứa trong đó. Sự nhẹ nhàng, tinh tế khi Thanh cài lên mái tóc Nga bông hoa hoàng lan, theo tôi đó chính là khoảnh khắc lãng mạn, tinh tế của đôi lứa. Dù sau đó Thanh vẫn tiếp tục phải lên đường, Nga ở lại, mỗi năm lại tự cài lên mái tóc của mình bông hoa hoàng lan như khi Thanh đang ở bên cạnh. Tình yêu chưa lời ngỏ, chuyện tình chưa đi được đến hồi kết nhưng sự nhẹ nhàng của tình yêu ấy cũng đủ để lay động biết bao tâm hồn.
Chất thơ của truyện ngắn “Dưới bóng hoàng lan” còn được thể hiện rõ nét qua nhân vật người bà. Người bà tuy xuất hiện không hẳn nhiều nhưng qua vài chi tiết, những hành động, những lời nói quan tâm ta có thể cảm nhận trọn vẹn được tình cảm bao la của người ba dành cho người cháu yêu thương của mình. Từ lời quan tâm “Đi vào trong nhà không nắng cháu” đến lời thúc giục cháu đi rửa mặt rồi nghỉ ngơi “ Con rửa mặt đi, rồi đi nghỉ không mệt. Trời nắng thế này mà con không đi xe ư?….”. Sợ cháu mệt, bà sửa gối chiếu, dùng phất trần để phủi bụi trên giường, bà giục cháu nghỉ ngơi còn mình thì xuống bếp nấu ăn vì sợ cháu đói.
Người bà quan tâm từng việc nhỏ nhặt nhất của người cháu. Đối với Thanh khi ở bên bà lúc nào cũng có cảm giác được che chở, được quan tâm thì đối với bà, người cháu dù có lớn khôn đến đâu thì với bà lúc nào cũng là một đứa nhỏ cần được yêu thương, chăm sóc: “ …Ở đấy, bà chàng lúc nào cũng sẵn sàng chờ đợi để mến yêu chàng”. Tình yêu thương của bà giản dị nhưng thật thiêng liêng, cao quý biết bao!
Từng cử chỉ, hành động của bà đều khiến ta cảm động, bà luôn ân cần chăm sóc cho Thanh “Bà lại gần săn sóc buông màn, nhìn cháu và xua đuổi muỗi, gió quạt nhẹ trên mái tóc chàng”. Tuy chỉ được miêu tả qua một câu ngăn ngủi nhưng ta dường như còn cảm nhận được ánh mắt trìu mến, nụ cười ấm áp, hiền từ của người bà. Ánh mắt ấy là cả trời yêu thương, quan tâm đến đứa cháu làm cho Thanh “..cảm động ứa nước mắt”, còn đối với người đọc như được trở về với những kí ức bên người bà, mỉm cười hạnh phúc với những kỉ niệm thân yêu của chính mình.
Truyện ngắn “Dưới bóng hoàng lan” là một câu chuyện nhẹ nhàng, giản dị nhưng đầy tinh tế, sâu sắc, bởi nó mang đến cho người đọc cảm giác thư thái, nhẹ nhàng thông qua câu chuyện của Thanh. Sở dĩ nó mang lại cho con người biết bao cảm xúc yêu thương, trìu mến bởi nó khơi gợi được thứ tình cảm gắn bó, sâu kín ở mỗi người, đó là tình yêu quê hương, tình cảm gia đình, tình yêu đầu đời.
Nghị luận Dưới bóng hoàng lan (mẫu 6)
Về truyện ngắn Dưới bóng hoàng lan (DBHL), nhà phê bình Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại đã viết: ”Trong tập Sợi Tóc, có tất cả 5 truyện, thì trừ truyện DBHL không có gì đặc sắc, còn những truyện Tối Ba Mươi, Cô Hàng Xén, Tình Xưa, Sợi Tóc, đều là những truyện vào hạng những đoản thiên tiểu thuyết đáng kể là hay nhất trong văn chương VN”.
Với lời bình trên, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan có lẽ là một trong những độc giả đầu tiên đương thời với nhà văn Thạch Lam thừa nhận tài năng của tác giả hàng đầu ấy của văn xuôi VN. Thế nhưng không hiểu vì sao lại có lồng trong đó một phủ nhận: trừ truyện Dưới bóng hoàng lan không có gì đặc sắc?
Dưới bóng hoàng lan là truyện ngắn không có cốt truyện. Nó không kể một câu chuyện. Nó sâu xa gợi nghĩ. Thời gian đọng lại, không gian tĩnh, nhưng hé lộ kín đáo bi kịch đời người mà độc giả phải đọc kỹ mới cảm được.
“Thanh lách cách cửa gỗ để khép, nhẹ nhàng bước vào”, câu ấy, mở đầu DBHL đã đáng kể là một trong những câu mở truyện ngắn bậc thầy. Ngắn và gọn, đơn giản, thật thế, mà kỳ thực khó lòng viết ra nổi. Một câu như không, song chắc chắn nhà văn đã phải rất kỳ công. Bởi khó hàng đầu của một truyện ngắn là câu mở đầu. Người đọc có đọc sang câu thứ hai và đọc đến câu chót của truyện hay không là do câu đầu truyện quyết định.
Với dạng truyện không cốt truyện thì câu mở truyện lại càng trọng hơn, càng đòi hỏi công phu và thực tài của nhà văn hơn. Trong câu mở của DBHL, từng từ một được lựa không chỉ theo nghĩa mà còn bằng vào âm để thành nên cả nhịp điệu cả tiếng động cho câu. Câu mở như thế đưa người đọc vào ngay cái thần của truyện là nỗi nao nao mơ hồ, bâng khuâng và âm thầm.
Thanh nghẹn họng; mãi chàng mới cất được tiếng gọi khẽ: Bà ơi. Một nỗi đau buồn thoáng nhanh trong câu ấy, tác giả không lộ rõ ra, Thanh là chàng trai mồ côi cha mẹ … một bà một cháu quấn quýt nhau. Thanh ra tỉnh làm rồi đi về hàng năm, các ngày nghỉ. Lần trở về này đã cách kỳ trước hai năm. Có phải đời sống thị thành đã nhiều lúc khiến Thanh quên bẳng người bà tóc bạc phơ đang sống những ngày cuối cùng trong đời mỏi mắt trông chờ anh? Đáp lại tiếng gọi Bà ơi, một cái bóng lẹ làng từ trong vụt ra, rơi xuống mặt bàn. Thanh định thần nhìn: con mèo của bà chàng… Thanh mỉm cười lại gần vuốt ve con mèo: “Bà mày đâu?”
Chốn Thanh về mọi thứ đều già cỗi và không đổi. Thời gian như quay ngược lại, không gian đứng lặng. Phong cảnh vẫn y nguyên, gian nhà vẫn tịch mịch và bà chàng vẫn tóc bạc phơ và hiền từ. Trong cảnh bình yên và thong thả của chốn xưa, một hình ảnh tươi mát hiện lên. Cô thiếu nữ xinh xắn trong tà áo trắng, mái tóc đen lánh buông trên cổ nhỏ, bên cạnh mái tóc bạc trắng của bà chàng.
Cuộc đời các nhân vật của DBHL dường như hoàn toàn êm ả trôi xuôi. Tuy nhiên vẫn có cái gì đó bất an mà truyện buộc ta phải nghĩ tới. Những tình huống hiền lành này sẽ kéo dài được bao lâu? Liệu Thanh có thể cứ đều đều hàng năm trở về nơi bình yên và thong thả này? Rồi đây Thanh và cô Nga láng giềng sẽ gắn bó lâu dài hay chỉ là gặp lại nhau vậy thôi rồi ngày mai chàng lại ra đi?
Đã phải là tình yêu chưa khi cô Nga nói khe khẽ Những ngày em đến đây hái hoa, em nhớ anh quá. Văn Thạch Lam đặc biệt hay ở những lời thân thương vô cùng giản dị như thế của con người. Thanh chẳng biết nói gì; chàng vít một cành lan xuống giữ trong tay để Nga tìm hoa, rồi nhẹ nhàng buông ra cho cành lại cong lên. Và trong đêm khuya khi sắp chia tay: Không lưỡng lự, Thanh cầm lấy tay Nga, để yên trong tay mình, Nga cũng đứng lên yên lặng. Lâu lâu, Nga rút tay khẽ nói: Thôi, em về.
Thanh đi trở vào rất thong thả. Có cái gì dịu ngọt chăng tơ ở đâu đây, khiến chàng vương phải. Chàng đến trường kỷ ngồi ở bên đèn.
Câu cuối này ngấm vào lòng người bởi nỗi buồn vô hạn và không lời của nó. Người đọc đương thời với Thạch Lam có thể chỉ cảm thấy thương và buồn cho mối tình chưa kịp ngỏ lờ, mối tình quá đỗi mong manh, mơ hồ, thoang thoảng như hương hoàng lan trong bóng vườn xưa. Buồn và lãng mạn, văn hay, thật vậy, nhưng chỉ thế thôi, chẳng có chuyện gì, nên người ta dễ cho rằng DBHL không có gì đặc sắc.
Tuy nhiên một nhà văn lớn như Thạch Lam không bao giờ lại cất công viết một cái gì vô thưởng vô phạt. Chắc chắn ông viết DBHL bởi ông cảm thấy một cái gì đó, một cái gì đó không thấy được và không hiểu được nhưng rõ ràng là đang ập tới, đã cận kề những tháng ngày dường như là cực kỳ tĩnh lặng của buổi đương thời cuộc đời ông. Vì vậy nỗi buồn của DBHL thực ra là nỗi đau thương, một nỗi đau thương âm thầm, một niềm tiên cảm về cuộc đời tác giả và cả hoàn cảnh của đất nước nữa những năm tháng sau đó.
Thật sự là nỗi đau buồn, dù rằng không thể nhận thấy.
Tới cổng, Thanh còn đứng lại nhìn cây hoàng lan và các cây khác trong vườn. Bác Nhân nhanh nhảu cầm đỡ va ly cho chàng. Thanh dặn khẽ: Bảo tôi có lời chào cô Nga nhé.
Mối tình không ngỏ lời, không tiễn đưa, không gặp được nhau lần cuối. Tất cả đều trở thành những mảnh trời xanh tan tác.
Thanh cúi nhìn bóng chàng lay động trong lòng bể với mảnh trời xanh tan tác
Không lẽ đây không phải là lời dự báo, không phải là điềm báo trước?
Đi sâu vào sở trường của mình là miêu tả những tâm trạng đời người đơn lẻ, nhưng nhờ vậy mà ngòi bút Thạch Lam vô hình trung đã thể hiện được một phần tâm trạng của cả một thời.
Bóng hoàng lan đây là bóng mát cuối cùng của thời quá khứ. Một chốn bình yên và thong thả cho người bộ hành trẻ tuổi trên dọc đường đời. Nhưng là một chốn bình yên không bao giờ còn có lại, chí ít là với riêng cuộc đời nhà văn.
Nghị luận Dưới bóng hoàng lan (mẫu 7)
Thạch Lam là một nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam, chắc hẳn chúng ta không còn xa lạ với những tác phẩm nổi tiếng của ông như Hai đứa trẻ, Gió đầu mùa,…Tác phẩm của ông thường có cốt truyện đơn giản hoặc thậm chí không có cốt truyện nhưng vẫn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Cũng như vậy, tác phẩm Dưới bóng hoàng lan của Thạch Lam có nội dung xoay quanh chuyến đi về quê thăm bà của nhân vật Thanh, mồ côi cha mẹ và sống với bà từ nhỏ, với cây hoàng lan được trồng ở mái nhà thân thương. Cốt truyện Dưới bóng hoàng lan đúng như phong cách sáng tác của tác giả Thạch Lam, vô cùng đơn giản, nhưng nó đã để lại dấu ấn với người đọc với nhiều ý nghĩa sâu sắc.
Khi trở về thăm bà, Thanh vô cùng sung sướng và hạnh phúc, cũng như không kém phần xúc động. Thanh cảm nhận khung cảnh yên bình bao lấy mình khi về đến nhà, nào là “con đường lát gạch Bát Tràng rêu phủ”, gió thổi mùi lá tươi non bay, tường hoa thẳng đến cửa nhà, quang cảnh đó tồn tại trong không gian vô cùng yên tĩnh của làng quê. Tất cả những điều dung dị bình yên như vậy đã khiến cho Thanh cảm thấy “bao nhiêu sự ồn ào ở ngoài kia đều ngừng lại bên trên bậc cửa”. Vào đến bên trong nhà, đặt chiếc vali xuống, Thanh nhìn ngắm lại tổ ấm thân thương đã lâu ngày mới được nhìn lại của mình và rồi chàng nghẹn ngào xúc động, mọi thứ vẫn giống y như khi xưa mình đi. Căn nhà được bà chăm nom, giữ gìn cẩn thận để cho Thanh cảm thấy dễ chịu nhất mỗi khi trở về. Thanh bắt đầu gọi bà, bà đang ở trong vườn, nghe được tiếng gọi bà chống gậy trúc đi lên, Thanh mừng rỡ khôn xiết chạy lại gần người bà thân yêu của mình, bà đã già, mái tóc bạc phơ. Với đôi mắt hiền từ và miệng đang nhai trầu, bà nhìn ngắm đứa cháu một cách “âu yếm và mến thương”, rồi bà nói “Đi vào trong nhà không nắng cháu”. Tuy Thanh đã lớn, nhưng vẫn mãi chỉ là một cậu bé trong mắt của bà mình, vẫn được bà yêu thương, lo lắng cho những điều nhỏ bé nhất. Tác giả Thạch Lam đã mang đến cho chúng ta một hình ảnh đối lập thật ý nghĩa, đó là Thanh khi đi bên bà người “thẳng, mạnh”, còn bà thì “gầy còng”, ấy vậy mà Thanh vẫn cảm nhận được bà đang che chở cho mình. Sự vui mừng, hạnh phúc khi được gặp lại nhau của bà cháu Thanh thật đáng quý. Những kỉ niệm từ khi bé đã dần theo dòng kí ức hiện về trong tâm trí Thanh, với bóng cây hoàng lan thơm thoang thoảng trong khu vườn xanh mát. Chàng cảm thấy thân thuộc như chưa hề rời xa ngôi nhà của mình và bà bao giờ, mặc dù thời gian Thanh xa nhà là hai năm. Những vật dụng trong nhà và con mèo già vẫn vậy, tình yêu của bà luôn ở đó, khiến cuộc sống của Thanh như chậm lại và cảm thấy bình yên, thong thả. Bà không nói yêu Thanh, nhưng từng hạnh động, lời nói của bà lại thể hiện điều đó, bà dọn dẹp lại giường, rồi bảo Thanh nghỉ ngơi để bà đi hái rau chuẩn bị cơm cho chàng, bà buông màn, đuổi muỗi cho cháu. Thanh gần rơi nước mắt vì cảm động trước tình cảm bà dành cho mình. Tình bà cháu sâu đậm của Thanh và bà tuy không được miêu tả trực tiếp quá nhiều bằng lời thể hiện tình cảm, nhưng vẫn khiến cho người đọc thấy được tình thân sâu sắc đó, qua những câu văn đầy ý nghĩa của nhà văn Thạch Lam.
Sau khi nghe thấy tiếng người cùng bà nấu cơm dưới bếp nhưng không nhớ ra đó là giọng ai, Thanh ngồi dậy, qua khung cửa sổ nhìn ra cây hoàng lan trong vườn, rồi giật mình nhận ra đó là Nga, người hàng xóm cùng mình lớn lên từ bé, có thể xem như là thanh mai trúc mã. Trong tâm trạng vui sướng, Thanh chạy xuống bếp để gặp Nga, đối với chàng, cô là một người thân mật mà lần nào về mình cũng gặp. Nga được miêu tả là một cô gái xinh xắn, đang đi học vì mặc áo dài trắng, có mái tóc đen nhánh. Những câu trò chuyện khi lâu ngày gặp lại của Nga và Thanh vẫn mộc mạc, giản dị như trước. Đã có lúc, Thanh còn xem Nga như là em gái ruột của mình. Nhưng rồi, lần về này tình cảm của hai người có sự biến đổi, có lẽ, một tình yêu đẹp đang nhen nhóm giữa hai người. Bắt đầu từ việc hai người ra vườn ngắm cây hoàng lan, ôn lại chuyện hồi bé, ngắm nhìn những tia nắng vương trên tóc Nga, tim của Thanh đập nhẹ nhàng. Cho đến tối, sau khi ăn cơm xong, Thanh lại dắt nàng đi thăm vườn, dưới bóng hoàng lan, chàng cảm nhận được mùi hương thơm vấn vương trên mái tóc Nga. Cô đã mạnh dạn bày tỏ trực tiếp tình cảm với Thanh: “Những ngày em đến đây hái hoa, em nhớ anh quá”. Đáp lại câu nói đó, Thanh cũng đã có một lời hứa hẹn khi Nga hỏi bao giờ anh lên tỉnh rằng mai kia anh sẽ về ở đây lâu hơn, đây như một lời hứa hẹn và mong muốn Nga chờ mình của Thanh. Khi tiễn Thanh về đến cổng, không chần chừ gì nữa, Thanh đã dùng hành động thay cho lời tỏ tình, chàng đã nắm lấy tay Nga thật lâu, cho đến khi Nga bảo đi về. Từ lúc đó, tâm hồn Thanh bỗng thấy ngọt ngào, một cảm giác hạnh phúc mới đã xuất hiện ở trong Thanh.
Đến sáng hôm sau Thanh phải lên tỉnh, vali lại nặng những thức quà là tình thương của bà sắp cho. Thanh đi trong cảm xúc vừa vui, vừa buồn. Buồn vì lại phải xa nhà, xa bà, xa người thương để đi xa học hành, lập nghiệp. Nhưng Thanh cũng vui vì Thanh biết mình còn có ngôi nhà thân thương cùng bà kính yêu để trở về khi mệt nhọc và lần này, anh còn có thêm một người đợi mình, với mái tóc vương mùi hoa hoàng lan, chính là cô Nga.
Tác phẩm Dưới bóng hoàng lan của nhà văn Thạch Lam có cốt chuyện thật giản dị và sâu lắng nhưng lại thành công ghi dấu ấn trong lòng người đọc vì sự tinh tế, dịu dàng trong từng câu chữ đầy tài năng của tác giả. Qua đó, tình thân và tình yêu chân thật được khắc họa thành công qua nhân vật Thanh, bà của Thanh và cô Nga.
IV. Nghị luận Lão Hạc
Nghị luận Lão Hạc (mẫu 1)
Văn học hiện thực Việt Nam đánh dấu sự thành công trên văn đàn của nhiều tác giả như Kim Lân, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố… và không thể không nhắc tới nhà văn Nam Cao. Nếu viết về chủ đề người tri thức, ông không chỉ khiến người đọc trăn trở, xót xa với bao số phận như Thứ, như Hộ,… những kẻ tri thức giàu ước mơ, khát khao nhưng bị cái nghèo, cái đói vùi dập, ghì sát đất. Thì viết về chủ đề người nông dân, Nam Cao cũng khiến cho ta phải thổn thức, đắng cay với số phận của những kiếp người đau khổ, nghèo đói nhưng giàu tình người. Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên là một nhân vật như thế.
Cũng như bao nhiêu người nông dân khác, chân lấm tay bùn quanh năm suốt tháng làm lụng nhưng cuộc sống lão Hạc rất nghèo khổ. Cả gia tài chỉ có túp lều nát làm chốn nương thân với ba sào vườn nhỏ, lão có một con chó mà lão hết mực yêu quý với cái tên thân thương là “cậu Vàng” và một thằng con trai độc nhất. Lão chân chất, nghèo khó, như bao nhiêu người nông dân khác, lão làm thuê kiếm sống qua ngày. Đứa con trai của lão vì mong có tiền cưới vợ mà đòi bán mảnh vườn đi nhưng lão không cho, bèn bỏ nhà đi lên đồn điền cao su không biết ngày trở về. Vậy là lão phải chịu cảnh sống thui thủi, một thân một mình, lấy con chó làm bạn. Tuổi già, lại cô đơn, lão ốm liền hơn hai tháng trời không ai chăm sóc, trận ốm khiến sức khỏe của lão ngày một yếu đi, không còn được khoẻ mạnh như trước nữa. Nhưng phận làm thuê đâu ai bỏ tiền ra mà thuê người già yêu bao giờ, việc nhẹ nhàng thì đàn bà con gái trong làng cũng làm vừa đủ, nơi đâu đến phần lão. Lão lâm vào cảnh thất nghiệp, không có nổi công việc kiếm đồng ra đồng vào nuôi thân.
Năm ấy, bão tố mạnh đã khiến mảnh vườn nhà lão không còn một chút hoa màu nào, cây trái bị phá tan hoang. Đã đói lại càng thêm đói, ngày ăn ba hào gạo mà người và chó cũng cứ đói nheo đói nhắt, tình cảnh thật bi thiết. Cuối cùng, trong tình cảnh túng bấn, lão buộc phải bán cậu Vàng đi, bởi “lấy tiền đâu mà nuôi được”. Giá cả ngày một đắt đỏ, đói khổ ngày càng thêm nặng, lão phải ăn những củ ráy, củ sắn mài, ngọn rau má, có khi là bữa trai, bữa ốc để qua ngày. Lão dần xa cách với người hàng xóm thân thuộc nhất của mình là ông giáo. Cuộc sống ngày càng tù túng, đơn độc. Cuối cùng, lão chọn cái chết bằng bả chó để kết thúc cuộc đời của chính mình, một cái chết bất ngờ và đầy đau khổ.
Cuộc đời Lão Hạc thật bi thảm, nghèo đói nhưng trong lão ánh lên những phẩm chất tốt đẹp. Lão là một người cha tốt và có trách nhiệm. Với con, lão luôn dành hết tình yêu của mình cho hắn, dẫu đó là một đứa trẻ bồng bột, có phần nông cạn. Lão luôn lo lắng cho tương của con, nghĩ cho cuộc đời con. Lão buồn vì con không có tiền cưới vợ, lão đau đớn biết bao khi còn từ bỏ gia đình đi đồn điền cao su. Bao nhiêu tiền bán được cây trái trong mảnh vườn nhỏ lão đều để dành cho con, chắt chiu từng hào cũng là lo cho con. Tiền bán cậu Vàng lão cũng để cho con. Dù trong cái đói quay quắt, cái nghèo nàn bao trùm lấy bản thân thì lão cũng nhất quyết không bán đi bất cứ một sào vườn nào mà phải để trọn vẹn cho con. Cuộc đời lão luôn nghĩ về con, mọi việc lão làn đều là vì con, lo lắng cho con. Cái chết thầm lặng cũng là một hi sinh lớn lao của lão cho con.
Lão Hạc còn là một người hiền lành, tốt bụng và nhân hậu, giàu lòng yêu thương, tình nghĩa với hàng xóm, giàu tự trọng và hết mực yêu thương loài vật. Lão rất quý cậu Vàng, coi cậu như một người bạn, ăn cái gì cũng chia cho cậu, làm gì cũng có câu theo cạnh. Lão tâm sự với cậu Vàng như là tâm sự với những người thân yêu. Cậu Vàng như một phần trong đời sống của lão, là nguồn vui sống, là chỗ dựa tinh thần lớn lao của lão. Khi buộc phải bán cậu Vàng đi là khi lão quá túng quẫn bí bách, bán cậu là sự lựa chọn duy nhất lúc này vì lão làm gì còn cái gì nữa để cho Vàng ăn. Bán cậu Vàng, lão luôn cảm thấy tội lỗi vô cùng, vẻ mặt đau khổ đến dằn vặt của lão khi kể chuyện bán cậu vàng cho bọn thằng Xiên, thằng Mục thật thương cảm biết bao: “Mặt lão tự nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít”… Sự dằn vặt đến tội nghiệp khi nghĩ về cậu Vàng cho ta thấy cái đẹp về nhân cách trong con người Lão Hạc.
Trong xã hội, ta vẫn thấy đầy rẫy những người khi lâm vào đường cùng trở nên tha hoá, xấu xí nhân cách. Nhưng với Lão Hạc thì khác, càng trong túng quẫn ông lại càng rạng ngời lên những phẩm chất tốt đẹp, càng trong đói khổ lại càng ánh lên sự thanh cao, trong sạch. Lão Hạc như một hình ảnh đẹp tuyệt vời trong những trang văn của Nam Cao giúp thanh lọc tâm hồn con người khỏi những toan tính, nhỏ nhen, ích kỉ của đời sống.
Có thể nói, nhà văn Nam Cao bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình với những chi tiết giàu sức gợi đã tạo nên một tượng đài văn học bất hủ. Qua đó thể hiện được tấm lòng cảm thương sâu sắc của nhà văn với lão Hạc nói riêng và những người nông dân Việt Nam xưa nói chung.
Nghị luận Lão Hạc (mẫu 2)
“Lão Hạc” là một trong những truyện ngắn tiêu biểu của nhà văn Nam Cao viết về số phận người nông dân trước cách mạng. Nổi bật lên trong truyện là hình ảnh lão Hạc đã trở thành một trong những biểu tượng cho người nông dân Việt Nam.
Đầu tiên, lão Hạc cũng sống trong hoàn cảnh chung giống như biết bao người nông dân trước cách mạng – phải đối mặt với cuộc sống nghèo đói khổ cực. Nhưng lão cũng có hoàn cảnh riêng của mình. Vợ lão mất sớm. Con trai lão bỏ đi đồn điền cao su vì không có đủ tiền cưới vợ. Lão chỉ có con Vàng là kỷ vật của con bầu bạn. Không chỉ vậy, thiên tai còn đẩy lão vào cảnh đói nghèo. Lão phải đối mặt với: cái đói, giàu yếu, và sự cô đơn. Để rồi cuối cùng lão phải bán con chó trong niềm khổ đau tột cùng: “Mặt co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra, cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm mém mếu như con nít”, “lão hu hu khóc”…
Sống trong hoàn cảnh đó, nhưng lão Hạc vẫn có những phẩm chất tốt đẹp. Lão Hạc là một người cha hết mực yêu thương con. Vì thương con, lão chấp nhận đối mặt với cô đơn, với tuổi già để con ra đi cho thỏa chí. Con đi rồi, lão dồn cả yêu thương vào con chó Vàng. Bởi đó con chó là kỉ vật duy nhất mà con trai lão để lại. Nhìn con chó, lão tưởng như được thấy con mình. Lão thương con đến mức chấp nhận cái đói, rồi cả cái chết chứ không chịu bán đi mảnh vườn là của hồi môn của con. Nếu lão bán mảnh vườn, ắt lão sẽ đủ ăn tiêu để vượt qua thời khốn khó. Nhưng lão lại lo khi con trai về không có đất sinh sống làm ăn.
Đói nghèo như thế, khổ đau như thế nhưng lão không vì vậy mà tha hóa về nhân phẩm. Lão quyết không nhận sự giúp đỡ của ông giáo, bởi lão nghĩ hoàn cảnh của ông giáo có khá hơn mình đâu. Ban đầu là “luôn mấy hôm lão chỉ ăn khoai”, “khoai cũng hết, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc”. Rồi đến mức chẳng còn gì để ăn, để sống. Trong hoàn cảnh này, con người ta rất dễ đánh mất đi sự trong sạch của mình. Nhưng lão Hạc thì không như vậy. Lão quyết định tìm đến cái chết. Lão đến xin Binh Tư một ít bả chó.Binh Tư đã nghi ngờ lão. Ông giáo cũng vậy. Nhưng không, Lão Hạc vẫn giữ được vẹn nguyên tâm hồn dào dạt yêu thương đáng quý, đáng trọng của người nông dân và cả sự tự trọng cao đẹp của mình.
Lòng tự trọng của lão Hạc rực sáng nhất ngay khi thân xác lão đau đớn nhất. Lão Hạc đã chọn cái chết, một cái chết khốc liệt để tâm hồn mình được trong sạch, được trọn vẹn tình nghĩa với tất thảy mọi người – kể cả với con chó Vàng tội nghiệp.
Với ngòi bút xây dựng nhân vật độc đáo, qua nhân vật lão Hạc, người đọc mới thấm thía được số phận bất hạnh của người nông dân Việt Nam trước cách mạng, cũng như nổi bật lên cả là phẩm chất tốt đẹp của họ.
Nghị luận Lão Hạc (mẫu 3)
Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên là một trong những nhân vật “để đời” của Nam Cao. Lão Hạc, một nông dân nghèo khổ, cùng quẫn, nhưng không bị biến chất như Chí Phèo, mà trái lại có một tâm hồn đẹp, một nhân cách cao thượng.
Lão sống một thân một mình trong cô đơn, vất vả. Lão chỉ có đứa con trai duy nhất để nương tựa tuổi già thì anh ta lại phẫn chí bỏ đi phu đồn điền cao su- “cao su đi dễ khó về”. Lão Hạc đành thui thủi làm thuê, làm mướn kiếm ăn lân hồi, đồng thời cố nhặt nhạnh, dành dụm cho con.
Nhưng một trận ốm đã làm lão trở nên tay trắng. Sức yếu dần “những công việc nặng không làm được nữa”, việc nhẹ thì “đàn bà tranh hết”. Lão Hạc không có việc. Rồi lại bão. Hoa màu trên mảnh vườn bị phá sạch sành sanh. Gạo cứ kém dần. “Một lão với một con chó, mỗi ngày ba hào gạo mà gia sự còn đói gieo đói dắt. Cuối cùng lão phải ăn khoai. Khoai cũng hết. Bắt đầu từ đây, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai, bữa ốc.
Thực ra tình cảnh lão Hạc đã làm gì bế tắc đến thế. Lão còn mảnh vườn đó, con chó vàng đó, có thể bán đi mà tiêu. Nhưng lão sống vì con chứ đâu vì mình. Điều này mấy ai hiểu cho lão. Người ta chỉ thấy lão lẩm cẩm. Có ông giáo hàng xóm là người có lòng ái ngại, nhưng vừa bày tỏ với vợ đã bị thị gạt phắt ngay: “Cho lão chết! Ai bão lão có tiền mà chịu khổ! Nhà mình sung sướng gì mà giúp lão? Con mình cũng đói”.
Còn Binh Tư, một gã lưu manh chuyên đánh bả chó thì lại lấy làm khoái chí khi thấy lão đến xin mình một ít bả. Hắn tưởng đâu lão Hạc “đói quá hóa liều” cũng quay sang trộm cắp như hắn. Hắn bĩu môi: “Lão làm bộ đấy! Thật ra thì lão chỉ tẩm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chẳng vừa đâu”. Ngay đến ông giáo tuy hiểu lão Hạc hơn cả mà cũng đâm ra nghi ngờ.
Người ta chỉ hiểu lão khi lão đã chết rồi. Lão tự tử bằng nắm bả chó của Binh Tư. Lão chết đi nhưng sẽ còn sống mãi trong lòng người như một tấm gương đạo đức hiếm có.
Hiếm có người cha nào thương con như lão Hạc. Nghèo khó nhưng lúc nào cũng nghĩ đến bổn phận làm cha, lo làm tròn bổn phận ấy, dẫu có phải chịu khổ, chịu đói và chết bi thảm. Hình ảnh đứa con trái, nỗi lo chu tất cho con luôn ám ảnh, dằn vặt tâm trí lão. Hồi anh ta còn ở nhà, lão không cho anh ta bán vườn để cưới vợ cũng là xuất phát từ sự tính toán điều hơn lẽ thiệt của bậc làm cha.
Thực ra lão dằn lòng lắm. Bởi đạo làm cha phải lo cho con một người vợ, một căn nhà – một tổ ấm gia đình. Song tình cảnh lão thì lo chưa chu toàn được. Anh con trai phẫn chí ra đi, ngày về khó hẹn, lão lại đã già. Đã bao lần, lão ngỏ tâm sự này với ông giáo: tiền hoa lợi trong vườn, tiền bán con chó vàng, mảnh vườn, lão không dám đụng đến, vì đây là tiền của con, là tiền mà người làm cha phải để lại cho con. Nếu không, không phải “đạo”.
Đã bao lần lão tính tiền bòn vườn sủa con, “không cho bán là ta chỉ có ý giữ cho nó, chứ có phải giữ để ta ăn đâu!… Ta bòn vườn của nó, cũng nên để ra cho nó, đến lúc nó về, nếu nó không đủ tiền cưới vợ thì ta thêm vào cho nó, nếu nó có đủ tiền cưới vợ thì ta cho vợ chồng nó để có chút vốn mà làm ăn”. Lão đã làm y như thế. Thà ăn khoai, ăn củ chuối, củ ráy… chứ lão không ăn vào tiền của con, không chịu bán mảnh vườn của con.
Bao nhiêu tiền nhặt nhạnh được từ mảnh vườn, lão gửi tất cả nhờ ông giáo giữ hộ. Rồi lão chết để không bao giờ phải đụng đến. Ôi, lão Hạc, con người bề ngoài thì có vẻ tiều tụy và gàn dở như vậy mà thật giàu tình nặng nghĩa. Mà đâu chỉ đối với đứa con. Tấm lòng nhân hậu của lão còn thể hiện ở cái tình rất nặng với con chó vàng mà lão gọi là “cậu vàng” như một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự.
Cứ xem cái cách lão nựng con chó: “À không! À không! Cậu vàng của ông ngoan lắm! ông không cho giết… ông để cậu vàng ông nuôi”…, hay cái vẻ mặt vô cùng đau khổ của lão khi kể cho ông giáo nghe lão đã bán con chó. “Mặt lão tự nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít”, đủ thấy lão thương xót con chó và cảm thấy mình có tội như thế nào khi phải bán nó đi.
Chân thật, chất phác, đôn hậu, tràn đầy tình thương và trách nhiệm, lão Hạc cũng thật giàu lòng tự trọng. Đối với ông giáo, người lão tin tưởng và quý trọng đến thế, lão cũng vẫn giữ ý để khỏi bị coi thường. Lão đói đấy, lão phàn nàn “kiếp người như lão cũng khổ như kiếp chó” đấy, nhưng khi ông giáo mời lão ăn khoai, uống nước chè tươi, lão đã từ chối.
Lão dứt khoát “từ chối tất cả”. Khi ông giáo giấu vợ, thỉnh thoảng muốn ngấm ngầm giúp đỡ lão một chút gì, lão từ chối “một cách gần như hách dịch”. Rồi lão cứ cố ý xa ông giáo dần dần. Cuối cùng thì lão Hạc chết. Chủ động tìm đến cái chết, một cái chết bi thảm, khốc liệt như là cái chết của một con người cao quý. Bởi qua cái chết này, tất cả những phẩm giá cao đẹp của lão ánh lên, chiếu sáng thăm thẳm vào lòng người.
Gần đây người ta đã dựng phim về các nhân vật của Nam Cao – phim Làng Vũ Đại ngày ấy. Nhà văn Kim Lân được mời đóng vai lão Hạc. Kim Lân đã nghiền ngẫm kĩ về nhân vật của mình, ông nói: “Lão Hạc không chỉ là một người nghèo, đó là một con người có nhân cách, tự trọng và bất khuất”. Chúng ta cũng hoàn toàn đồng ý với Kim Lân.
Ta còn thấy rằng những phẩm chất ấy của lão Hạc đã cho ta những suy nghĩ sâu sắc. Cái chết của lão Hạc đã để lại cho chúng ta, cùng với nỗi xót thương vô hạn là nhiều bài học quý. Bài học sâu sắc nhất là trong bất kì thân phận nào, hoàn cảnh nào cũng phải giữ danh hiệu con người cao quý.
Giữa người với người phải có trách nhiệm với nhau hơn, phải hiểu biết để đánh giá đúng và cảm thông với người khác hơn, phải tin tưởng hơn ở con người và cuộc đời. Và phải biết căm ghét xã hội bất công, những thế lực độc ác vùi dập, đày đọa những con người như lão Hạc.
Vợ ông giáo từng nói về lão Hạc: “Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ. Lão làm lão khổ chứ ai làm lão khổ!”. Nhưng thực ra sống làm người, có những điều dù khổ, dù phải tự làm khổ mình cũng phải giữ. Chết cũng giữ! Đó là những điều thuộc về đạo lí, nhân cách làm người như lão Hạc đã giữ.
Vì thế, đã hơn 60 năm (truyện Lão Hạc ra đời năm 1943), lão Hạc vẫn sống cùng chúng ta,sẽ còn sống cùng chúng ta. Và dẫu cho cuộc đời này còn nhiều nỗi đáng buồn nhưng có những con người như lão Hạc thì cuộc đời “chưa hẳn đã đáng buồn”.
Nghị luận Lão Hạc (mẫu 4)
Viết về đề tài nông dân trước cách mạng, “‘Lão Hạc” là một truyện ngắn độc đáo, đặc sắc của nhà văn Nam Cao. Một truyện ngắn chứa chan tình người, lay động bao nỗi xót thương khi tác giả kể về cuộc đời cô đơn bất hạnh và cái chết đau đớn của một lão nông nghèo khổ. Nhân vật lão Hạc đã để lại trong lòng ta bao ám ảnh khi nghĩ về số phận con người, số phận người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ.
Lão Hạc, một con người nghèo khổ, bất hạnh. Ba sào vườn, một túp lều, một con chó vàng… đó là tài sản, vốn liếng của lão. Vợ chết đã lâu, cảnh gà trống nuôi con, lão lần hồi làm thuê kiếm sống. Đứa con trai độc nhất không có trăm bạc để cưới vợ, cảm thấy “nhục lắm” đã “phẫn chí” đi phu đồn điền cao su Nam Kỳ, biền biệt năm, sáu năm chưa về.
Tuổi già, sống cô quạnh, nỗi bất hạnh ngày thêm chồng chất. Lão Hạc chỉ còn biết làm bạn với con chó vàng. Lão bị ốm một trận kéo dài 2 tháng 18 ngày. Không một người thân bên cạnh đỡ đần, săn sóc cho một bát cháo, một chén thuốc! Tình cảnh ấy thật đáng thương!
Tiếp theo một trận bão to, cây trái hoa màu trong vườn bị phá sạch sành sanh. Làng mất nghề sợi. Đàn bà con gái trong làng đi làm thuê rất nhiều, giành hết mọi việc. Sau trận ốm, lão Hạc yếu hẳn đi, chẳng ai thuê lão đi làm nữa. Thất nghiệp! Giá gạo mỗi ngày một cao. Lão và cậu Vàng, mỗi ngày ăn hết ba hào gạo mà vẫn “đói gieo đói dắt”. Bao nhiêu tiền bán hoa lợi trong vườn dành dụm được bấy lâu nay, lão đã chi tiêu gần hết trong trận ốm!
”Nhưng đời người ta không chỉ khổ một lần (…). Lão Hạc ơi! Ta có quyền giữ cho ta một tí gì đâu?”. Nhân vật ông giáo đã nghĩ như thế khi nghe lão Hạc nói về ý định phải bán con chó. Cậu Vàng “ăn khỏe”, mỗi ngày cậu ấy ăn “bỏ rẻ cũng mất hào rưỡi, hai hào”. Lão Hạc rất yêu cậu Vàng, nhưng “lấy tiền đâu mà nuôi được?” Lão Hạc phải bán cậu Vàng cho thằng Xiên, thằng Mục…
Bán cậu Vàng xong, lão Hạc bị đẩy sâu xuống đáy vực bi thảm. Lão cảm thấy mình là một kẻ “tệ lắm”, đã già mà còn “đánh lừa một con chó”. Đói khổ, túng bấn, cô đơn… ngày một thêm nặng nề… lão Hạc chỉ ăn khoai, ăn củ chuối, ăn sung luộc, ăn rau má, thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai bữa ốc.
Lão từ chối mọi sự giúp đỡ của ông giáo một cách “gần như là hách dịch”. Lão xa ông giáo dần, chỗ dựa tinh thần của lão bấy lâu nay. Lão Hạc đã ăn bả chó để tự tử. Lão chết đau đớn thê thảm: đầu tóc rũ rượi, mắt long sòng sọc, tru tréo, bọt mép sùi ra… vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết! Cái chết thật là dữ dội!
Số phận một con người, một kiếp người như lão Hạc thật đáng thương. Với chủ nghĩa nhân đạo thống thiết, Nam Cao đã nói lên bao tình thương xót đối với những con người đau khổ, bế tắc phải tìm đến cái chết thê thảm. Chí Phèo tự sát bằng mũi dao, Lang Rận thắt cổ chết… Và lão Hạc đã quyên sinh bằng cái bả chó! Lão Hạc đã từng hỏi ông giáo: ”… nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng?”. Câu hỏi ấy đã thể hiện nỗi đau khổ tột cùng của một kiếp người.
Lão Hạc, một con người chất phác, hiền lành, nhân hậu. Lão rất yêu con. Biết con buồn vì không có tiền để cưới vợ lão thương con lắm…. Lão đau đớn khi con sắp đi làm phu đồn điền cao su. Lão chỉ biết khóc: “Thẻ của nó, người ta giữ. Hình của nó, người ta đã chụp rồi (…). Nó là người của người ta rồi, chứ đâu còn là con tôi ?”. “Cao su đi dễ khó về” (Ca dao).
Con trai lão Hạc đã đi “bằn bặt” năm, sáu năm chưa về. Hoa lợi trong vườn, bán được bao nhiêu lão dành dụm cho con, hi vọng khi con trở về “có chút vốn mà làm ăn”. Lão tự bảo: “Mảnh vườn là của con ta… Của mẹ nó tậu thì nó hưởng…”. Đói khổ quá, nhưng lão Hạc đã giữ trọn vẹn ba sào vườn cho con. Lão đã tìm đến cái chết, thà chết chứ không chịu bán đi một sào. Tất cả vì con, một sự hi sinh thầm lặng cực kì to lớn!
Lòng nhân hậu của lão Hạc được thể hiện sâu sắc đối với con chó vàng, mà người con trai để lại. Lão quý nó, đặt tên nó là “cận Vàng”. Cho nó ăn cơm trong bát sứ như nhà giàu. Bắt rận hoặc đem nó ra cầu ao tắm. Lão ăn gì cũng chia cho cậu Vàng cùng ăn. Lão ngồi uống rượu, cậu Vàng ngồi dưới chân, lão nhắm một miếng lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ.
Lão tâm sự với cậu Vàng như tâm sự với một người thân yêu ruột rà: “Cậu Vàng của ông ngoan lắm! Ông không cho giết… Ông để cậu Vàng ông nuôi…”. Có thể nói, cậu Vàng được lão Hạc chăm sóc, nuôi nấng như con, như cháu; nó là nguồn vui, chỗ dựa tinh thần, nơi san sẻ tình thương, giúp lão Hạc vơi đi ít nhiều nỗi buồn cô đơn, cay đắng.
Cậu Vàng là một phần cuộc đời lão Hạc. Nó đã tỏa sáng tâm hồn và làm ánh lên bản tính tốt đẹp của ông lão nông đau khổ, bất hạnh này. Vì thế, sau khi bán cậu Vàng đi, từ túng quẫn, lão Hạc chìm xuống đáy bể bi kịch, dẫn đến cái chết vô cùng thảm thương.
Lão Hạc là một nông dân nghèo khổ mà trong sạch, giàu lòng tự trọng. Trong đói khổ cùng cực phải ăn củ chuối, củ ráy… ông giáo mời lão ăn khoai, uống nước chè, lão cười hồn hậu và khất “ông giáo cho để khi khác”. Ông giáo ngấm ngầm giúp đỡ, lão từ chối “một cách gần như hách dịch”. Bất đắc dĩ phải bán con chó; bán xong rồi, lão đau đớn, lương tâm dằn vặt: “thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó”.
Ba sào vườn gửi lại nguyên vẹn cho con trai, như một lời nguyền đinh ninh: “Cái vườn là của con ta (…). của mẹ nó tậu thì nó hưởng”. Trước khi chết, lão gửi lại ông giáo mảnh vườn cho con, và gửi lại 30 đồng bạc để “lỡ có chết… gọi là của lão có tí chút…”, vì lão không muốn làm phiền đến hàng xóm. Nam Cao đã tinh tế đưa nhân vật Binh Tư, một kẻ “làm nghề ăn trộm” ở phần cuối truyện, tạo nên một sự đối sánh đặc sắc, làm nổi bật tấm lòng trong sạch, tự trọng của lão Hạc, một lão nông chân quê đáng trọng.
Tóm lại, cuộc đời của lão Hạc đầy nước mắt, nhiều đau khổ và bất hạnh. Sống thì âm thầm, nghèo đói, cô đơn; chết thì quằn quại, đau đớn. Tuy thế, lão Hạc lại có bao phẩm chất tốt đẹp như hiền lành, chất phác, vị tha, nhân hậu, trong sạch và tự trọng…
Lão Hạc là một điển hình về người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ được Nam Cao miêu tả chân thực, với bao trân trọng xót thương, thấm đượm một tinh thần nhân đạo thống thiết.
Nghị luận Lão Hạc (mẫu 5)
Nam Cao là một nhà văn lớn của người nông dân Việt Nam, đặc biệt là người nông dân trước Cách mạng tháng Tám 1945. Ông vẫn cảm nhận được những vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn của họ trước bờ vực của cái đói, cái nghèo. Truyện ngắn “Lão Hạc” của nhà văn là một tác phẩm như thế.
Nhân vật chính của tác phẩm – nhân vật lão Hạc – dù có một hoàn cảnh bất hạnh, đau đớn nhưng lão vẫn giữ được tình yêu thương đối với những người thân yêu và đặc biệt là một lòng tự trọng cao cả. Qua nhân vật này, nhà văn đã thể hiện tư tưởng nhân đạo tiến bộ và sâu sắc.
Lão Hạc cũng như bao người nông dân Việt Nam khác phải đối mặt với cái nghèo, cái đói của cuộc sống cơ cực, tăm tối trước Cách mạng. Nhưng lão còn có những hoàn cảnh riêng vô cùng bất hạnh. Vợ lão chết sớm. Con trai lão phẫn chí vì nghèo không lấy được người mình yêu nên bỏ đi đồn điền cao su. Lão chỉ có con Vàng là kỷ vật của con để làm bạn.
Vậy là cùng một lúc lão phải đối mặt với bao đau khổ: cái đói, sự cô đơn và tuổi già với ôm đau, bệnh tật. Rồi cuộc đời cực khổ, dồn lão đến mức hết đường sinh sống. Lão phải dứt ruột bán đi con chó Vàng mà lão yêu thương nhất. Lão bán con chó trong niềm khổ đau tột cùng: “Mặt co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra, cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm mém mếu như con nít”, “lão hu hu khóc”,…
Ban đầu là “luôn mấy hôm lão chỉ ăn khoai”, “khoai cũng hết, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc”. Rồi đến mức chẳng còn gì để ăn, để sống. Rồi điều gì đến sẽ phải đến. Không còn đường sinh sống, lão Hạc chỉ còn đường chết. Và đó là một cái chết thật đau đớn, thật tủi nhục: chết “nhờ” ăn bả chó tự tử…!
Cái chết của lão dữ dội vô cùng: lão sùi bọt mép, lão co giật phải hai người đàn ông lực lưỡng đè lên… Cái chết ấy khiến người đọc liên tưởng đến cái chết của con chó Vàng để rồi rùng mình nhận ra rằng cái chết của lão đâu khác gì cái chết của một con chó.
Đói nghèo như thế, khổ đau như thế nhưng lão không vì vậy mà tha hóa về nhân phẩm. Binh Tư đã tưởng lão xin bả chó để ăn trộm. Ông giáo cũng nghi ngờ lão. Nhưng không, Lão Hạc vẫn giữ được vẹn nguyên tâm hồn dào dạt yêu thương đáng quý, đáng trọng của người nông dân và cả sự tự trọng cao đẹp của mình.
Lão yêu thương con rất mực. Văn học Việt Nam đã có những “Cha con nghĩa nặng” của Hồ Biểu Chánh, “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng,… ngợi ca tình phụ tử. Và trong đó cũng cần nhắc đến “Lão Hạc” của Nam Cao. Vì thương con, lão chấp nhận đối mặt với cô đơn, với tuổi già để con ra đi cho thỏa chí. Con đi rồi, lão dồn cả yêu thương vào con chó Vàng.
Đừng nghĩ đơn giản rằng lão cưng chiều “cậu” Vàng vì đó là con chó khôn, chó đẹp. Điều quan trọng nhất khiến lão yêu quý con Vàng đến mức chia với nó từng cái ăn, cho nó ăn vào bát như người, rồi đến lúc nó chết lão quằn quại, đau đớn,… là bởi con chó là kỉ vật duy nhất mà con trai lão để lại. Nhìn con chó, lão tưởng như được thấy con mình.
Không chỉ vậy, lão thương con đến độ chấp nhận cái đói, rồi cả cái chết chứ không chịu bán đi mảnh vườn của con. Nếu lão bán mảnh vườn, ắt lão sẽ đủ ăn tiêu để vượt qua thời khốn khó. Nhưng lão lại lo khi con trai về không có đất sinh sống làm ăn. Vậy là lão đã nhận lấy cái chết rồi nhờ ông giáo giữ đất cho con. Chao ôi! Tình yêu thương con của lão thật cảm động biết mấy!
Yêu thương những người thân yêu ruột thịt, lão Hạc còn là một người sống đầy tự trọng trước cuộc đời nhiều cám dỗ và tội lỗi. Vào hoàn cảnh như lão, người ta đã có thể ăn trộm, ăn cắp hay thậm chí ăn bám vào người khác (như Binh Tư chẳng hạn, hay người đàn bà trong “Một bữa no” của Nam Cao..) nhưng lão Hạc thì không. Với sự giúp đỡ của ông giáo (mà cũng có gì đâu, đó chỉ là củ khoai, củ sắn) lão “từ chối gần như hách dịch” khiến ông giáo nhiều khi cũng chạnh lòng.
Binh Tư ngỡ rằng lão xin bả để ăn trộm chó “lão cũng ra phết đấy chứ chẳng vừa đâu”. Đến lượt ông giáo cũng nghi ngờ: “con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư? cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn”. Nhưng cuối cùng tất cả đều ngỡ ngàng, sửng sốt trước cái chết đột ngột của lão. Hay còn cách khác: lão có thể bán quách mảnh vườn đi. Nhưng lão lại nghĩ rằng đó là mảnh vườn của con lão. Và lão đã thà chết chứ không ăn của con!
Lòng tự trọng của lão Hạc rực sáng nhất ngay khi thân xác lão đau đớn nhất. Lão đã chọn cái chết, một cái chết khốc liệt để tâm hồn mình được trong sạch, được trọn vẹn tình nghĩa với tất thảy mọi người – kể cả với con chó Vàng tội nghiệp. Nhưng còn một chi tiết khác cũng cảm động vô cùng. Lão đã tính toán để ngay cả khi chết đi rồi cũng không làm phiền đến mọi người: lão đã gửi ông giáo mấy chục đồng bạc, định khi mình nằm xuống thì nhờ ông giáo lo liệu ma chay khỏi làm phiền hàng xóm! Hỡi ôi lão Hạc!
Xây dựng nhân vật lão Hạc, Nam Cao đã sử dụng nghệ thuật khắc họa nhân vật tài tình. Điều đó được thể hiện trong đoạn văn miêu tả bộ dạng, cử chỉ của lão Hạc khi kể cho ông giáo chuyện lừa bán cậu Vàng, trong đoạn miêu tả sự vật vã đau đớn dữ dội của lão Hạc trước lúc chết. Ngôn ngữ nhà văn sử dụng trong tác phẩm sinh động, ấn tượng, giàu tính tạo hình và hết sức gợi cảm.
Qua nhân vật lão Hạc, nhà văn đã thể hiện tinh thần nhân đạo tiến bộ sâu sắc. Nam Cao đã đồng cảm đến tận cùng với cái nghèo, cái đói của người nông dân Việt Nam trong nạn đói 1945. Thời cuộc đã dồn họ đến đường cùng và lối thoát nhanh chóng nhất là cái chết nghiệt ngã.
Nhưng trên hết, nhà văn đã biết nâng niu trân trọng vẻ đẹp tâm hồn cao khiết của người nông dân ngay cả khi họ bước vào đường cùng. Không chỉ giàu tình yêu thương, người nông dân còn sống đầy tự trọng. Trong cái đói, tự trọng là thứ gì đó xa xỉ vô cùng. Vì miếng ăn, người ta có thể tàn nhẫn, dã man, thậm chí mất hết nhân tính. Nhưng đáng trọng thay lão Hạc, lão không chỉ giữ được tình thương tươi mát mà còn giữ được lòng tự trọng vàng đá của mình.
Và chính nhờ vẻ đẹp tươi sáng ấy của lão Hạc mà Nam Cao đã chiêm nghiệm: “Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn”. Chưa đáng buồn bởi còn có những con người cao quý như Lão Hạc. Viết câu văn ấy, nhà văn đã bày tỏ thái độ tin tưởng đối phẩm cách tốt đẹp của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Điều ấy đáng quý vô cùng bởi trước Cách mạng, người nông dân bị coi rẻ như cỏ rác, thậm chí có nhà văn còn nhận định người nông dân “như những con lợn không tư tưởng”. Và bởi thế, tư tưởng của Nam Cao đáng ca ngợi biết bao!
Nhân vật lão Hạc của nhà văn Nam Cao là một nhân vật có nhiều đặc điểm đáng quý, đáng trân trọng. Từ lão Hạc, người nông dân Việt Nam có quyền tự hào về tâm hồn và phẩm cách của mình. Dựng lên nhân vật này, nhà văn Nam cao đã khẳng định một quan điểm giàu tính nhân đạo sâu sắc.
Nghị luận Lão Hạc (mẫu 6)
Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc với những truyện ngắn, truyện dài chân thực viết về hai mảng đề tài chính: người nông dân nghèo đói bị vùi dập và người trí thức nghèo, sống mòn mỏi bế tắc trong xã hội xưa cũ. Trong đó, “Lão Hạc” được coi là truyện ngắn tiêu biểu nhất viết về người nông dân khi đã xây dựng được hình tượng nhân vật lão Hạc – nhân vật chính của tác phẩm.
Lão Hạc là một người nông dân nghèo khổ. Vợ mất sớm, một mình nuôi con khôn lớn. Tài sản trong nhà không có gì ngoài ba sào vườn, một túp lều nhỏ và một con chó. Lão không có đủ tiền cho con trai cưới vợ. Chán nản, anh con trai bỏ đi đồn điền cao su, bỏ lại lão sống một mình. Sau một trận ốm, trong nhà không còn gì để ăn, lão quyết định bán cậu Vàng – kỉ vật mà con trai để lại, không chỉ là một con vật mà còn giống như một người bạn.
Cuộc sống khốn khó là vậy, nhưng lão vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp. Nổi bật lên là một con người hiền lành, nhân hậu và giàu tình yêu thương. Lão vô cùng thương yêu con của mình. Khi không lo được cho con cưới vợ, lão đã vô cùng đau khổ. Vì thương con, lão chấp nhận sống cô đơn một mình lúc tuổi già ốm yếu để con ra đi cho thỏa chí. Con đi rồi, lão lại dồn hết tình cảm vào con chó Vàng – là kỉ vật duy nhất mà con để lại: “Con chó là của cháu nó mua đấy chứ!… Nó mua về nuôi, định để đến lúc cưới vợ thì giết thịt”. Nhìn thấy nó, lão tưởng như được thấy chính con trai mình. Không chỉ vậy, tình yêu thương con của lão còn khiến lão chịu đựng cái đói mà kiên quyết không chịu bán đi mảnh vườn – của hồi môn của con. Thậm chí lão Hạc quyết định lựa chọn cái chết để không động đến số tiền dành cho con. Lão bán đi căn nhà, đem hết số tiền sang nhà ông giáo gửi và nhờ trông coi mảnh vườn. Khi con trai lão về sẽ giao lại cho anh. Không chỉ đối với con trai, lão Hạc còn dành tấm lòng yêu thương dành cho con Vàng. Lão đối xử với nó như với một con người. Cho ăn bằng một cái bát lớn như của nhà giàu, có gì ăn cũng gắp cho nó cùng ăn. Mỗi khi rảnh rỗi còn đem nó ra tẳm rửa, bắt giận. Mỗi khi lão uống rượu có đồ nhắm ngon lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con cháu trong nhà. Thường xuyên tâm sự với nó, vỗ về ôm ấp. Lão coi con Vàng giống như một người bạn hơn là một con chó. Để rồi đến khi phải bán nó, lão đã vô cùng đau đớn, day dứt. Cái quyết định bán cậu Vàng vô cùng khó khăn, trăn trở giống như phải quyết định một việc trọng đại trong đời. Khi kể lại việc bán cậu Vàng cho ông giáo nghe, lão Hạc vô cùng đau đớn, tự trách bản thân mình nỡ đi lừa một con chó.
Lão Hạc cùng là một con người sống trong sạch, giàu lòng tự trọng. Dù sống trong hoàn cảnh túng quẫn, chỉ ăn củ chuối, sung luộc… nhưng lại từ chối “một cách gần như hách dịch” những gì ông giáo ngầm cho lão. Lão chỉ đến nhờ ông giáo hai việc. Một là, nhờ ông giáo trông nom hộ mảnh vườn, khi thằng con trai về sẽ giao lại cho nó. Hai là, nhờ ông ông giáo giữ hộ để khi mình chết thì nhờ ông giáo và bà con lo liệu ma chay cho mình. Sau đó, lão đến xin Binh Tư một ý bả chó và nói dối rằng dạo này có con chó hay đến vườn nhà lão nên muốn đánh bả nó. Nếu được lão sẽ mời hắn uống rượu. Nhưng thực ra lão Hạc dùng số bả chó ấy để tự tử. Nhà văn đã khắc họa hình ảnh lão Hạc khi chết đầy ám ảnh: “Lão Hạc đang vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người lão chốc chốc lại bị giật mạnh một cái. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ mới chết”. Cái chết dữ dội, đau đớn và thê thảm của một con người lương thiện.
Nhà văn Nam Cao đã sử dụng nghệ thuật miêu tả nhân vật vô cùng thành công. Cùng với đó là ngôn ngữ kể chuyện giàu tính tạo hình và sức gợi cảm kết hợp với tài năng miêu tả nội tâm nhân vật để khắc họa thành công nhân vật lão Hạc.
Như vậy, qua nhân vật Lão Hạc, Nam Cao đã đã khắc họa chân thực cuộc đời của người nông dân Việt Nam trước cách mạng cùng với đó là phẩm chất cao quý của họ.
Nghị luận Lão Hạc (mẫu 7)
Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc trong giai đoạn văn học 1930 – 1945. Qua nhiều tác phẩm, tác giả đã vẽ nên khung cảnh tiêu điều, xơ xác của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Sự đói khổ ám ảnh nhà văn bởi nó ảnh hưởng không ít tới nhân cách, nhưng trong cảnh nghèo đói thê thảm, phẩm chất tốt đẹp của người nông dân vẫn tồn tại và âm thầm tỏa sáng. Truyện ngắn Lão Hạc thể hiện cái nhìn nhân đạo sâu sắc của Nam Cao. Trong đó, nhân vật chính là một nông dân gặp nhiều nỗi bất hạnh vì nghèo đói nhưng chất phác, đôn hậu, thương con và có lòng tự trọng.
Vợ mất sớm, lão Hạc dồn tất cả tình yêu thương cho đứa con trai duy nhất. Lão sẽ sung sướng biết dường nào nếu con trai lão được hạnh phúc, nhưng con trai lão đã bị phụ tình chỉ vì quá nghèo, không đủ tiền cưới vợ.
Thương con, lão thấu hiểu nỗi đau của con khi anh nghe lời cha, không bán mảnh vườn để lấy tiền cưới vợ mà chấp nhận sự tan vỡ của tình yêu. Càng thương con, lão càng xót xa đau đớn vì không giúp được con thỏa nguyện, đến nỗi phẫn chí bỏ nhà đi phu đồn điền đất đỏ mãi tận Nam Kì. Mỗi khi nhắc đến con, lão Hạc lại rơi nước mắt.
Lão Hạc rất quý con chó vì nó là kỉ vật duy nhất của đứa con trai. Lão trìu mến gọi là cậu Vàng và cho nó ăn cơm bằng chiếc bát lành lặn. Suốt ngày, lão thầm thì to nhỏ với con Vàng. Với lão, con Vàng là hình bóng của đứa con trai yêu quý, là người bạn chia sẻ cô đơn với lão. Vì thế nên bao lần định bán con Vàng mà lão vẫn không bán nổi.
Nhưng nếu vì nhớ con mà lão Hạc không muốn bán cậu Vàng thì cũng chính vì thương con mà lão phải dứt khoát chia tay với nó. Lão nghèo túng quá! Lão đã tính chi li mỗi ngày cậu ấy ăn thế bỏ rẻ cũng mất hai hào đấy. Cứ mãi thế này thì tôi lấy tiền đâu mà nuôi được… Thôi bán phắt đi, đỡ đồng nào hay đồng ấy. Bây giờ, tiêu một xu cũng là tiêu vào tiền của con. Tiêu lắm chỉ chết nó!
Thế là vì lo tích cóp, giữ gìn cho con trai chút vốn mà lão Hạc đành chia tay với con chó yêu quý. Đã quyết như thế nhưng lão vẫn đau đớn, xót xa. Lão kể cho ông giáo nghe cảnh bán cậu Vàng với nỗi xúc động cực độ. Lão đau khổ dằn vặt vì cảm thấy mình đã đánh lừa một con chó. Nỗi khổ tâm của lão cứ chồng chất mãi lên. Trước đây, lão dằn vặt mãi về chuyện vì nghèo mà không cưới được vợ cho con, thì bây giờ cũng chỉ vì nghèo mà lão thêm day dứt là đã cư xử không đàng hoàng với một con chó. Lão cố chịu đựng những nỗi đau đớn ấy cũng chỉ nhằm một mục đích là giữ gìn chút vốn cho con.
Biểu hiện cao nhất của tình yêu thương con chính là cái chết của lão. Ông lão nông dân nghèo khổ ấy đã tính toán mọi đường: Bây giờ lão chẳng làm gì được nữa… Cái vườn này là của mẹ nó chắt chiu dành dụm cho nó, ta không được ăn vào của nó… Ta không thể bán vườn để ăn… Chính vì thương con, muốn giữ cho con chút vốn giúp nó thoát khỏi cảnh nghèo mà lão Hạc đã chọn cho mình cái chết. Đó là một sự chọn lựa tự nguyện và dữ dội. Nghe những lời tâm sự của lão Hạc với ông giáo, không ai có thể kìm nổi lòng xót thương, thông cảm và khâm phục. Một con người vì nghèo đói mà bất hạnh đến thế là cùng! Một người cha thương con đến thế là cùng!
Không chỉ có vậy, qua từng trang truyện, chúng ta còn thấy lão Hạc là người đôn hậu, chất phác. Suốt đời, lão sống quanh quẩn trong lũy tre làng. Trong làng chỉ có ông giáo là người có học nên lão tìm đến ông giáo để chia sẻ tâm sự. Lời lẽ của lão Hạc đối với ông giáo lúc nào cũng lễ phép và cung kính. Đó là cách bày tỏ thái độ kính trọng người hiểu biết, nhiều chữ của một lão nông. Cảnh ngộ lão Hạc đã đến lúc túng quẫn nhưng lão tự lo liệu, xoay xở, cố giữ nếp sống trong sạch, tránh xa lối đói ăn vụng túng làm càn. Thậm chí, lão kiên quyết từ chối sự giúp đỡ chỉ vì lòng thương hại.
Lão đã chuẩn bị kĩ lưỡng mọi việc. Trước khi chết, lão nhờ ông giáo viết văn tự để giữ hộ con trai mình mảnh vườn và gửi ông giáo 30 đồng để lo chôn cất. Lão không muốn mọi người phải tốn kém vì lão. Rất có thể vì tốn kém mà người ta lại chẳng oán trách lão sao? Không phiền lụy đến mọi người, đó cũng là cách để giữ gìn phẩm giá. Thì ra ông lão có vẻ ngoài gàn dở ấy lại có phẩm chất đáng quý biết nhường nào!
Nhà văn Nam Cao đã giúp chúng ta hiểu được nỗi khổ tâm, bất hạnh vì nghèo đói cùng những vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Từ những trang sách của Nam Cao, hình ảnh lão Hạc luôn nhắc chúng ta nhớ đến những con người nghèo khó mà trong sạch với một tình cảm trân trọng và yêu quý.
Nghị luận Lão Hạc (mẫu 8)
Nam Cao là một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Truyện của Nam Cao nóng hổi chất hiện thực của thời đại và chan chứa tấm lòng yêu thương con người, đặc biệt là những người khốn khổ. Cùng với Chí Phèo, trăng sáng, đời thừa,… Lão Hạc là truyện ngắn đặc sắc. Nhân vật trung tâm của thiên truyện là lão Hạc, một người nông dân gặp nhiều nỗi khổ tâm và bất hạnh vì nghèo đói nhưng chất phác, đôn hậu, thương con.
Đọc vài dòng đầu của truyện, chúng ta chợt chạnh lòng trước tình cảnh đau thương của lão Hạc. Nhà nghèo, không có tiền cưới vợ cho đứa con trai duy nhất, lão Hạc rất buồn bã, khổ tâm, xót xa. Cậu con trai bi quan thất vọng trước cái xã hội mà người ta sống với nhau chỉ vì tiền, xem tình cảm chỉ là một món hàng nên xin vào miền nam làm phu đồn điền cao su. Nguyện vọng của cậu ta là vào đấy, cố gắng làm ra nhiều tiền để lấy được người cậu yêu. Thật ra, cậu ta suy nghĩ hãy còn nông cạn mà quên những câu ca dao này:
“Cao su đi dễ khó về,
Khi đi trai tráng, khi về bủng beo”.
Hay:
“Cao su xanh tốt lạ đời,
Mỗi cây bón một xác người công nhân”.
Lão Hạc là người gặp bất hạnh chồng chất bất hạnh. Trước đây, lão Hạc bất hạnh vì vợ chết. Nay, lão rơi vào nỗi bất hạnh vì con ra đi biền biệt. Đối với lão “ngày cũng như đêm chỉ thui thủi một mình”. Bây giờ lão đành làm bạn với con chó Vàng. Lão và chó Vàng vui buồn có nhau. Dù đứa con ở phương xa nhưng lúc nào lão cũng nghĩ về con và lo cho con: “Ta bán vườn của nó, cũng nên để ra cho nó, đến lúc nó về, nếu nó không đủ tiền cưới vợ thì ta cho vợ chồng nó để có chút vốn mà làm ăn”.
Nhưng trên cõi đời này, không ai có thể dự đoán được tương lai của mình. Lão Hạc không phải là trường hợp ngoại lệ. Ôm đau do tuổi già đã cướp đi những ý nghĩ tốt đẹp của lão. Dân gian có câu “nhà sập bìm leo”- lão chưa khỏe hẳn thì tai họa do thiên nhiên ập đến. Những cơn bão nặng nề, dữ dội tàn phá làng mạc, thôn xóm cũng như cướp sạch sành sanh hoa màu của lão. Giá gạo trở nên đắt đỏ. Bởi thế, đói nghèo chồng chất đói nghèo. Lão Hạc rơi vào bế tắc. Con chó Vàng mà lão thương yêu bị bán đi. Đó là điều ngoài ý muốn, đồng thời là nỗi day dứt, tiếc nuối, xót xa của lão. Lão cất tiếng khóc chan chứa nỗi khổ đau: “Mặt lão tự nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão nghẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít, lão hu hu khóc…”. Tiếng khóc của lão Hạc thể hiện trạng thái dồn nén đến cùng cực, cạn kiệt, khiến chúng ta liên tưởng đến một quả chanh bị vắt kiệt nước, chỉ còn cái vỏ bèo nhèo. Nỗi đau của lão Hạc không kém nỗi đau của lão Gôriô trong kiệt tác cùng tên của đại văn hào Balzac. Lão Gôriô và lão Hạc có điểm chung là cả hai lão đều gặp nỗi đau trong đoạn cuối của cuộc đời. Điểm khác nhau là nguyên nhân của mỗi nỗi đau do những hoàn cảnh khác nhau gây ra. Lão Gôriô đau đớn, bất hạnh vì bị ba cô con gái ruồng rẫy, bạc đãi khi lão già yếu. Còn lão Hạc có con trai hiếu thảo ở phương xa nhưng đau khổ vì đói nghèo do hoàn cảnh xã hội gây ra. Tiếng khóc của lão Hạc bơ vơ, lạc lõng giữa dòng người, dòng đời. May mắn thay, ông giáo chia sẻ với lão nhưng ông giáo cũng nghèo.
Việc bán con chó Vàng đi khiến lương tâm của lão ray rứt mãi: “Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó!”. Tình thương yêu con vật có nghĩa khiến lão nghĩ mình là kẻ bạc bẽo, đánh lừa loài vật. Con người lừa dối con người đã xấu xa. Tồi tệ hơn khi con người lừa con vật. Vì lão Hạc nghĩ như thế nên lão cảm thấy hổ thẹn. Những lời nói giữa lão Hạc và ông giáo cho chúng ta thấy lão Hạc đang trên đường đi đến đỉnh điểm của nỗi khốn khổ và bất hạnh: “Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hoá kiếp cho nó để nó làm kiếp người may ra có sung sướng hơn một chút… Kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn!…”. “Nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng?” Chắc có lẽ, lão Hạc là người tín ngưỡng phật giáo nên gặp đau khổ, lão liên tưởng đến thuyết “nhân quả ba đời” của nhà phật. Những lời lão Hạc thốt ra thể hiện sự nhân từ lẫn mỉa mai, chua chát, thất vọng, bế tắc.
Tuy nghèo nhưng lão Hạc vẫn luôn nghĩ đến con. Lão đặt niềm tin trọn vẹn vào ông giáo cùng khổ. Lão giữ tất cả ba sào vườn và 30 đồng bạc để khi lão chết đi con trai lão vẫn còn chút tài sản làm kế sinh nhai. Ôi! Lòng cha thương con đến thế là cùng! Chắc có lẽ, sau này cậu con trai nếu may mắn sống sót trở về, khó có thể hiểu rằng, để có được chút của cải ấy, cha của cậu ta phải dè sẻn, hôm ăn chuối, hôm ăn sung luộc, bữa ăn rau má, củ ráy, bữa trai, bữa ốc, cho đến … Bả chó! Ông giáo bất ngờ khi biết lão Hạc xin bả chó của Binh Tư. Có lần, Binh Tư nói với ông giáo trong cái “bĩu môi”: “Lão làm bộ đấy! Thật ra thì lão chỉ tẩm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu!”. Ông giáo suýt chút nữa đã hiểu lầm phẩm chất “đói cho sạch, rách cho thơm” của lão Hạc nếu chỉ nghe lời của kẻ xấu như Binh Tư.
Người ta thường nói rằng: Kẻ bất lương luôn có những ý nghĩ xấu xa. Thật đúng như vậy, Binh Tư chuyên hành nghề ăn trộm nên nghĩ lão Hạc xin bả chó là để cùng chung bước đường của hắn. Không! Lão Hạc là một đóa hoa sen trong sạch giữa bùn nhơ. Lão tự kết liễu cuộc đời mình bằng bả chó vì quá khốn cùng, vì muốn bảo toàn danh dự và nhân phẩm. Nếu trong kiệt tác chí phèo của Nam Cao, chí phèo tự kết liễu cuộc đời mình bằng nhát dao oan nghiệt thì lão Hạc cũng tự tìm đến cái chết nhưng bằng bả chó. Chí phèo đau đớn vì cả làng Vũ Đại ai cũng coi hắn là con quỷ dữ chứ không phải là con người. Còn lão Hạc may mắn hơn chí phèo ở chỗ lão Hạc được mọi người quý mến, đồng thời lão cũng là người cao thượng. Lão Hạc không muốn sống những chuỗi ngày tăm tối để ăn hết phần tiền dành dụm cho con, để làm phiền luỵ đến mọi người.
Nhưng xét cho cùng, lão Hạc là người vì con. Có thể xem cái chết của lão như một sự hi sinh, ôi! Tình thương con của lão Hạc vừa bao la, vừa toả sáng lung linh như viên ngọc trăm màu.
Tóm lại, cuộc đời lão Hạc là những trang đầy bất hạnh, đau khổ. Nhưng chúng ta thấy, càng trong đau khổ, lão Hạc càng đẹp lạ thường. Phải chăng, đó chính là vẻ đẹp chung của những người nông dân bé nhỏ ở Việt Nam trước cách mạng tháng tám?
Nghị luận Lão Hạc (mẫu 9)
Trong nền văn học nước nhà, đặc biệt là các tác phẩm truyện ngắn viết về đề tài nông dân không thể không nhắc đến tác giả Nam Cao, một nhà văn của người nông dân, tác phẩm Lão Hạc là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông viết về đề tài người nông dân Việt Nam, câu chuyện thể hiện được bản chất xã hội, lên án xã hội mục nát, chèn ép nhân dân lao động.
Trong truyện, trung tâm là nhân vật Lão Hạc, là một người nông dân sống cảnh nghèo đói, khổ cực, góa vợ, hoàn cảnh khó khăn bắt buộc mà con trai lão bỏ làng đi vào đồn điền cao su làm ăn, để Lão Hạc ở nhà với con chó mà con trai lão mua. Những ngày tháng xa con lão phải sống trong lo âu, phiền muộn vì chưa làm tròn bổn phận của một người cha dành cho đứa con của mình. Con trai lão Hạc là một nhân vật tuy nhắc đến không nhiều nhưng vì nghèo đói mà anh cũng phải rời xa ngôi nhà của mình để đi làm cao su, anh ra đi với hi vong “có bạc trăm” vì “sống khổ, sống sở ở cái làng này nhục lắm” để thấy một ý chí khát khao có một cuộc sống bình bị, ấm no hạnh phúc trong tương lai. Nhưng cái nơi anh muốn cuộc sống thay đổi thì lại là nơi địa ngục trần gian, “cao su đi dễ khó về/khi đi trai tráng khi về bủng beo” cho thấy sự bóc lột sức lao động của con người một cách dã man.
Nhân vật ông giáo chính con người nhiều chữ nghĩa ấy lại nghèo, nếu lão Hạc yêu cậu Vàng bao nhiêu thì cũng như ông giáo yêu quý những quyển sách của mình bấy nhiêu, dù quý sách nhưng vì nghèo đói ông cũng phải bán dần đi còn đúng 5 quyển ông nói “dù có phải chết cũng không bán”. Thông qua nhân vật ông giáo làm ta hiểu được thêm nỗi đau trực tiếp của người nông dân, hiểu thêm được căn nguyên sâu xa trong nỗi đau của họ phải trực tiếp chịu đựng, dù vậy họ vẫn phải bươn trải, lao động vất vả để duy trì cuộc sống nghèo túng.
Vì sống một mình, cộng thêm sự cô đơn một mình trong nhà mà lão Hạc thương cậu Vàng lắm, có gì cũng cho nó ăn, chăm sóc chu đáo, nhưng sự nghèo đói khiến ông phải bán nó đi, một quyết định mà chính ông cũng cảm thấy có lỗi. Sau trận bão, lão không thể kiếm ra tiền mà “tiêu một xu cũng là tiêu vào tiền của cháu. Để rồi lão chọn kết cục thật bi thương, lão dành dụm được số tiền cho đứa con trai cùng mảnh đất để cho nó sau này lấy vợ. Nhân vật Lão Hạc tự sắp xếp cái chết trước cho mình, một cái chết giải thoát cho mọi thứ, đây chính là tình cảnh chung mà người dân nghèo khổ lúc bấy giờ phải chịu đựng
Dù nghèo đói nhưng đến phút cuối cùng lão vẫn giữ được nét thanh cao trong con người mình, giữ được nhân phẩm, đạo đức, không làm cho một đời bị nghèo đói làm vẩn đục, để rồi nhận được sự giải thoát cuối cùng. Cái chết chính là tâm điểm của tác phẩm khi sáng lên tinh thần nhân văn cao cả của con người. Bằng lối văn kể chuyện đầy đặc sắc của mình tác giả làm tăng thêm giá trị nghệ thuật và đặc biệt càng khiến người đọc thêm cảm phục hơn tinh thần của những người nông dân nghèo khổ, dân gian ta thường có câu “đói cho sạch, rách cho thơm” để hiểu được dù nghèo nhưng chúng ta vẫn phải ngẩng cao đầu, sống sao cho hợp tình hợp lý, để nhân phẩm luôn trong sạch.
Cái chết của Lão Hạc đã được ông chuẩn bị, từ việc mua bả chó về, rồi gọi ông giáo sang dặn dò những ý nguyện của ông, để rồi bán cậu Vàng, bán một người bạn trung thành luôn bên cạnh ông, để có một kết thúc tuy không có hậu nhưng nó đang lên án, một xã hội mục nát, dồn ép con người ta đến bước đường cùng. Khi đọc Truyện ngắnLão Hạc ta bắt gặp biết bao mảnh đời éo le, biết bao con người, bao số phận, bao mảnh đời đáng thương, nhưng rất nhiều tấm lòng đáng trân trọng, giữa bóng tối của cuộc đời cùng quẫn sau lũy tre làng, ta vẫn tìm thấy ít nhiều ánh sáng trong tâm hồn nhân hậu, chan chứa tình yêu thương. Mỗi lần đọc lại một lần xót thương cho số phận của con người nông dân chân chất đầy đau thương, với một “lão Hạc” xuất sắc đến vô cùng, tác giả Nam Cao đã rất thành công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, ông chính là nguồn thơ văn khi kể đến người nông dân.
Nghị luận Lão Hạc (mẫu 10)
Nam Cao được biết đến chính là “ông hoàng của truyện ngắn”, những tác phẩm truyện ngắn của ông không chỉ mang lại được những giá trị hiện thực sâu sắc mà mang được những giá trị nhân văn. Nam Cao nổi danh trong sáng tác viết về người nông dân nghèo khổ trước Cách mạng và trong đó không thể không nói đến “Lão Hạc”.
Có thể nhận thấy được rằng cũng chính lão Hạc cho ta một cái nhìn về quá khứ để mà trân trọng nhiều hơn cuộc sống hôm nay. Tác phẩm thực sự là một trong những tác phẩm giá trị không chỉ về hình thức, cách diễn đạt ngôn từ phong phú và bình dị thì còn thể hiện những chiều sâu tư tưởng đạo lý và hiện thực xã hội lúc bấy giờ. Có thể nhận thấy được cũng chính cuộc sống là một cuộc đấu tranh dường như cũng phải chỉ đơn giản là để sinh tồn mà còn là một cuộc đấu tranh để bảo toàn nhân cách cho mỗi con người.
Nếu như người ta có thể bắt gặp những thế lực cường quyền hắc ám trong xã hội cũ đã đẩy người nông dân rơi vào tình cảnh éo le như trong “Tắt đèn”. Hay những thế lực cường quyền đã đẩy người nông dân vào bước đường cùng không lối thoát vì sưu thuế như ở nhân vật anh Pha trong “bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan. Thì người đọc vẫn có thể ngầm nhận ra được sự tài tình của nhà văn Nam Cao như cũng đã lên án đanh thép thế lực cường quyền đã đẩy tình cảnh người nông dân đến mức đường cùng không lối thoát.
Lão Hạc thực sự cũng chính là một sản phẩm của một tấm lòng nhân đạo cao cả. Tác phẩm như cũng chính là tình yêu thương, là sự ngợi ca, và đó đồng thời cũng là sự trân trọng người lao động của Nam Cao. Những người nông dân trước cách mạng hiện ra dưới ngòi bút của nhà văn Nam Cao cũng thật bình dị và chân thành biết bao nhiêu. Ta như cũng có thể nhận thấy được chính những nếp cảm, suy nghĩ của chính họ đã được lột tả một cách chân thực và độc đáo nhất. Không còn là một nhân vật bình thường nữa mà ta nhân vật Lão Hạc đại diện cho tất cả người nông dân trong xã hội cũ.
Những người nông dân như lão Hạc, ta dường như thấy được suốt đời sống trong cảnh nghèo và cái đói. Lão Hạc cũng đã dành hầu như cả đời mình để nuôi con mà chưa bao giờ nghĩ đến mình. Lão có một tình yêu thương con vô bờ bến và thật khó có thứ gì đó có thể so sánh được. Lão cũng rất quặn đau và thương khi con không lấy được vợ vì nhà ta nghèo đến thảm hại. Vì tấm lòng thương con phải bỏ làng, và bỏ xứ ra đi để ôm mộng làm giàu ở chỗ “một đi khó trở lại” như đồn điền cao su. Độc giả làm sao có thể kìm nén được cảm xúc khi chứng kiến được lão Hạc như cũng thật khổ biết nhường nào khi phải bán đi cậu Vàng, kỳ vật duy nhất của đứa con trai. Câu hỏi như cứ xoáy sâu tận tâm can của mỗi người, nếu như lão Hạc mà không bán cậu Vàng đi thì chính lão cũng không biết nuôi gì để cho cậu sống nữa khi đã không có gì ăn. Lão Hạc cũng đã cố gắng ăn củ chuối để sống qua ngày và lão nhận ra được rằng nếu như lão sống thêm, nhất định lão sẽ tiêu hết số tiền dành dụm cho đứa con mình bấy lâu nay. Thế rồi lão đã đi đến quyết định cuối cùng đó chính là việc xin Binh Tư ít bả chó và tự vẫn. Tình cảnh của lão Hạc thực sự là một trong những tình cảnh éo le và nó như thể hiện được thân phận khổ đau của người nông dân trước cách mạng thực sự khó khăn.
Thực sự chính cái chết của Lão Hạc sáng bừng phẩm chất cao đẹp của người nồng dân. Ta như cũng nhận thấy được chính cái chết của lão Hạc dường như cũng lại đã khiến ta vừa cảm thương vừa nể phục một nhân cách giàu tự trọng. Lão Hạc đã chết nhưng đã quyết giữ cho được mảnh vườn, và hơn hết lão như không muốn làm ai liên lụy nên đã chuẩn bị từ trước hết cho mình.
Độc giả đọc tác phẩm “lão Hạc” không khó để nhận thấy đâu phải chỉ mình lão khổ. Người ta như cũng đã thấy được ngay cả những hạng người như Binh Tư, một kẻ do cái nghèo mà bị tha hoá thành một tên trộm cắp. Và đó cũng chính là ông giáo, là một người trí thức đầy hiểu biết nhưng cũng không thoát ra khỏi áp lực của cảnh vợ con rách áo lo từng miếng ăn. Nếu như lão Hạc đau buồn trước việc phải bán cậu Vàng thì ông giáo cũng sẽ đau thậm thấu tâm can khi phải bán sách.
“Lão Hạc” chính với những giá trị hiện thực và giá trị nhân văn sâu sắc ta có thấy niềm tin đồng thời đó cũng chính là những sự lạc quan của nhà văn vào bản chất tốt đẹp của con người. Thế nhưng, thông qua đó ta nhận thấy được rằng chính điều quan trọng hơn mà nhà văn muốn nhắn gửi đó là một lời tố cáo. Tác phẩm như cũng đã lại cất lên như là một tiếng kêu để cứu lấy con người đã bị xã hội đẩy vào tình trạng buồn thảm đó.
Tác phẩm “Lão Hạc” như mang lại cho ta một cái nhìn về quá khứ để mà trân trọng nhiều hơn cuộc sống hôm nay. Thông qua đó có thể hiểu được tình cảnh khổ đau của những người nông dân trước cách mạng họ đã phải chịu nhiều đau khổ, ngay cả sự sống cũng như bị bóp nghẹt lại.
V. Nghị luận về Người cầm quyền khôi phục uy quyền
Nghị luận Người cầm quyền khôi phục uy quyền (mẫu 1)
V. Huy-gô là một trong những thiên tài nổi tiếng của văn học thế giới đầu thế kỉ XIX. Những áng văn bất hủ của ông đều chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, một vài tác phẩm có thể kể đến như Chín mươi ba, Nhà thờ Đức bà Pari hay Những người khốn khổ. Trích đoạn Người cầm quyền khôi phục uy quyền nằm trong phần thứ nhất của tiểu thuyết Những người khốn khổ, đây là phần phản ánh rõ nhất sự đối lập giữa cái thiện và cái ác trong cuộc sống, qua đó bày tỏ niềm thương xót của tác giả đối với số phận bất hạnh của những người khốn khổ.
Trong đoạn trích, nhà văn đã xây dựng hai nhân vật ở hai chiến tuyến đối lập nhau là Giăng Văn Giăng và Gia-ve. Giăng Văn Giăng – một người tù khổ sai giàu lòng yêu thương, cảm thông trước nỗi đau của Phăng – tin một người đàn bà khốn khổ bị mất con, ông luôn động viên, trấn an chị: “Cứ yên tâm. Không phải nó đến bắt chị đâu”. Giăng Văn Giăng còn lo sợ rằng Phăng-tin sẽ chết mà đành nhún nhường xin Gia- ve thư thư vài ba ngày để giúp đỡ Phăng – tin tìm lại con gái: “Xin ông thư cho ba ngày! Ba ngày để tìm đứa con cho người đàn bà đáng thương kia! Phải trả giá thế nào tôi cũng chịu”. Ông hiểu được rằng người đàn bà tội nghiệp kia đang mong muốn được gặp lại con biết nhường nào, con gái bây giờ với Phăng tin là nguồn sống, là điều đẹp đẽ duy nhất mà thế giới này bạn tặng cho cô. Có lẽ bây giờ tìm được Cô – dét là cách duy nhất để níu giữ sự sống cho người đàn bà đáng thương kia mà thôi.
Nhưng trớ trêu thay, ngay cả cái điều mong muốn thiện lương ấy của Giăng Văn giăng, nguồn hy vọng cuối cùng của người đàn bà đứng trước cửa tử kia cũng bị tên cầm quyền dập tắt.
“Hắn nhìn Phăng-tin trừng trừng, lại túm một túm lấy cổ áo và ca-vát của Giăng Van-giăng, nói thêm: Tao đã bảo không có ông Ma-đơ-len, không có ông thị trưởng nào cả. Chỉ có một kẻ cắp, một tên kẻ cướp, một tên tù khổ sai là Giăng Van-giăng!”. Chính lời nói tàn nhẫn kia đã cướp đi sinh mạng của Phăng tin, lời hắn nói khiến cô tuyệt vọng trong đau khổ. Khi Phăng – tin chết, Giăng Van- giăng chẳng còn lí do gì để hạ mình với hắn, trước hắn, trái lại càng căm tức hắn bội lần. Ông tiến tới chiếc giường, “giật gẫy trong chớp mắt chiếc giường cũ nát[…], ông cầm lăm lăm cái thanh giường trong tay và nhìn Gia-ve trừng trừng”. Đó là hành động thể hiện sự phản đối kịch liệt, sự căm thù của Giăng Van- giăng trước Gia- ve ác độc. Lúc này đây, Gia-ve uy lực mấy phút trước bỗng tiêu tan, người ta chỉ thấy một bộ mặt tái nhợt, bước lùi về phía cửa trong vẻ run sợ của hắn.
Về phần Phăng- tin, Giăng Van-giăng ngồi xuống cạnh bên, dành cho cô những hành động nâng niu nhất: “Giăng Van-giăng tì khuỷu tay lên thành giường, bàn tay đỡ lấy trán, ngắm Phăng-tin nằm dài không nhúc nhích. Ông ngồi như thế mải miết, yên lặng[…]”. Ông xót xa cho số phận nghiệt ngã của Phăng tin, xót xa cho một kiếp người mong manh, đến chết vẫn chẳng thể gặp lại con yêu. Qua ngòi bút của V. Huy- gô, Giăng Van-giăng hiện lên hình ảnh của một còn người giàu lòng yêu thương, đáng khâm phục và trân trọng biết bao.
Nếu Giăng Van-giăng lương thiện bao nhiêu thì Gia – ve càng độc ác bấy nhiêu. Ngoại hình, hành động hay lời nói của hắn thốt ra đều tố cáo bản chất gian mãnh, vô lương tâm của hắn. Hắn mang danh ngài thanh tra làm việc vì sự an bình của nhân dân mà chính hắn lại đạp đổ lên mục đích cao đẹp ấy. Ngay cả người đàn bà đang hấp hối giữa cái chết hắn vẫn không tha, buông lời quát mắng: “Giờ lại đến lượt con này! Đồ khỉ có câm họng đi không? Cái xứ chó đểu gì mà bọn tù khổ sai làm ông nọ ông kia, còn lũ gái điếm được chạy chữa như những bà hoàng! Nhưng này, sẽ thay đổi hết, đã đến lúc rồi đấy!”. Phải chẳng Gia – ve chính là một con ác thú giữa cuộc đời trần trụi, con ác thú gian mãnh sống trong mớ nguyên tắc khuôn mẫu, thiếu tình người.
Bằng bút pháp lãng mạn cùng nghệ thuật tương phản đặc sắc, Huy- gô không chỉ xây dựng thành công hai hình ảnh đại diện cho thiện -ác trong đời mà qua đó còn gửi gắm một thông điệp nhân sinh đầy sâu sắc: Trong bóng tối của cường quyền và tuyệt vọng, tình yêu thương như những vì sao lấp lánh, nâng đỡ con người, nhen nhóm niềm tin ấm áp nơi họ.
Nghị luận Người cầm quyền khôi phục uy quyền (mẫu 2)
V.Huy-gô là một con người đa tài, ông không chỉ là một nhà thơ mà còn là nhà tiểu thuyết, nhà soạn kịch, ở lĩnh vực nào ông cũng để lại những tác phẩm xuất sắc. Tuy xuất thân từ gia đình hoàng tộc nhưng bản thân ông lại luôn đứng về phía nhân dân, chống lại chính quyền phong kiến. Những người khốn khổ là tác phẩm làm nên tên tuổi của ông, vinh danh ông là người bạn chuyên viết về những người khốn cùng trong xã hội. Đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền tuy chỉ là trích đoạn ngắn nhưng cũng bộc lộ đầy đủ bút pháp lãng mạn, cũng như tư tưởng nhân văn cao cả của V.Huy-gô.
Đoạn trích thuộc chương IV, quyển 8 phần I, đây là trích đoạn có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Sau khi ra khỏi tù, nhận được sự giúp đỡ từ giám mục, Giăng Van-giăng đã trở thành một con người lương thiện, ông đổi tên thành Ma-đơ-len giúp đỡ mọi người có công ăn việc làm, bản thân được yêu quý và được bầu làm thị trưởng. Bản tính lương thiện, khiến ông không thể để mặc cho Săng-ma-chi-ơ bị bắt oan nên ông quyết định ra đầu thú, thú nhận chính mình là Giăng Van-giăng. Đoạn trích là cuộc đối đầu đầy kịch tính giữa thiện và ác, giữa Giăng Van-giăng và tên ác thú Gia-ve.
Đoạn trích có nhan đề “Người cầm quyền khôi phục uy quyền” vậy ở đây ai là người cầm quyền và khôi phục uy quyền. Gia-ve vốn là tay sai, là kẻ cầm quyền đi thực thi pháp luật. Còn Giăng Van-giăng lại là người tù khổ sai, phải phục tùng Gia-ve. Nhưng trong cuộc chạm trán giữa cái thiện và cái ác, Gia-ve đã phải sợ hãi, nhún nhường trước cái Thiện – Giăng Van-giăng. Cái thiện khôi phục uy quyền của mình, qua đó tác giả đã khẳng định và làm nổi bật chủ đề của tác phẩm.
Gia-ve hiện lên mang diện mạo của một con ác thú, bộ mặt gớm ghiếc, nhìn vào hắn có cảm tưởng như không thể chịu đựng được, người muốn lịm đi. Giọng điệu cộc lốc, thô lỗ, không chỉ vậy còn man rợ khi hắn điên cuồng hét lên, dường như ta không thể phân biệt đó là tiếng người hay tiếng thú. Ánh nhìn của hắn cũng làm người ta sởn gai ốc, nó tựa như một cái móc sắt. Nụ cười ghê tởm, phô ra hai hàm răng gớm ghiếc. Qua những nét phác họa hết sức điển hình, đã cho người đọc một hình dung chân thật về chân dung “quái thú” Gia-ve. Ở hắn, chỉ duy nhất có một hành động khiến người ta vẫn biết hắn là người chính là hành động hút thuốc. Ở đây V.Huy-gô đã sử dụng bút pháp tả thực để lột tả một cách chân thực đầy đủ nhất diện mạo của Gia-ve.
Không chỉ gớm ghiếc trong nhân hình mà hắn còn độc ác, man rợ trong nhân tính, trong cách hành xử với người khác. Trước người bị bệnh hắn ta không hề quan tâm đến sức khỏe của họ, mà vẫn ra sức quát tháo, khiến ai nấy đều khiếp sợ, giọng điệu hằn học, ngang ngược: “Giờ lại đến lượt con này”. Không dừng lại ở đó hắn còn nói ngay sự thật về Cô-dét và ông thị trưởng khiến cho chị Phăng-tin bị một cú sốc lớn về mặt tinh thần. Chính những lời nói, hành động không chút nhân tính của Gia-ve đã dẫn đến cái chết đầy thương tâm của Phăng-tin. Dù vậy hắn vẫn không mảy may xót thương, vẫn lạnh lùng thực thi nhiệm vụ, không hề động lòng thương cảm, “đừng có lôi thôi! Tao không đến đây để nghe lí sự”. Gia-ve mang trong mình bản tính tàn nhẫn, như một con ác thú. Đối với hắn trong xã hội chỉ có hai loại người có tội và không có tội, hắn là một công chức mẫn cán, thực hiện mọi chỉ thị của bọn tư sản. Và chính từ đó đã sản sinh ra một con quái thú đội lốt người mang tên Gia-ve.
Trái ngược lại với Gia-ve, lại là một Giăng Van-giăng sống trách nhiệm và đầy tình yêu thương đối với mọi người xung quanh. Trước khi chị Phăng-tin qua đời, ông vô cùng nhẹ nhàng, nhún nhường trước những lời lẽ cũng như hành động của Gia-ve đối với mình. Khi Ga-ve nắm lấy cổ áo Giăng Van-giăng, ông chỉ kính cẩn nói với Gia-ve: “Thưa ông tôi muốn nói riêng với ông câu này”. Lời lẽ hết sức nhún nhường, miễn sao để không bị ảnh hưởng đến người bị bệnh. Lời lẽ với chị Phăng-tin cũng rất nhẹ nhàng, tinh tế, tránh để cho Phăng-tin biết sự thật: “Tôi biết anh muốn gì rồi”. Mọi lời lẽ, hành động nhún nhường đó tất cả đều là vì Phăng-tin, ông không muốn cô gái đó đang sống trong mong manh hi vọng lại bị dập tắt bởi thực tế phũ phàng. Trong giây phút nguy hiểm đến tính mạng bản thân ông vẫn không màng, vẫn chỉ một mực suy nghĩ cho những người xung quanh mình.
Khi Phăng-tin tắt thở, thái độ của Giăng Van-giăng đối với Gia-ven đã thay đổi hẳn, đó là sự cương quyết, dứt khoát: “anh đã giết chết người đàn bà này rồi đó” và cảnh cáo Gia-ve: “Tôi khuyên anh đừng quấy rầy tôi lúc này”. Thái độ đó là bởi tình thương, sự xót xa dành cho Phăng-tin quá lớn. Ông dùng mọi cách, kể cả đối đầu với Gia-ve để được nán lại ít phút bên Phăng-tin tạm biệt người phụ nữ với số mệnh đầy đau khổ, bất hạnh. Ông vuốt mắt cho chị, gương mặt “Phăng –tin như rạng rỡ lên một cách lạ thường”. Tình yêu thương của Giăng Van-giăng khiến cho tất cả mọi người đều phải cảm mến, kính phúc. Và sau giây phút đó, Giăng Van-giăng chủ động, bình tĩnh nói “Giờ thì tôi thuộc về anh”. Thái độ hết sức hiên ngang, chủ động, ung dung.
Đoạn trích đã sử dụng nghệ thuật so sánh, đối lập tài tình, đó là sự đối lập giữa cái thiện và cái ác, cái nhân văn với cái thấp hèn, qua đó làm nổi bật tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Bút pháp lãng mạn được vận dụng tài tình, đặc biệt là qua hình ảnh nụ cười rạng rỡ nở trên môi Phăng-tin ngay khi chị đã qua đời. Đan xen trong lời kể là những lời bình luận ngoại đề, bộc lộ suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc của người viết, đây cũng là một cách định hướng cho người đọc.
Đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền, đã tái hiện chân thực cuộc đối đầu đầy gay go giữa cái thiện và cái ác. Đồng thời qua đó đã gửi gắm thông điệp đầy ý nghĩa: Lòng nhân ái, tình yêu thương con người có thể giúp ta vượt qua mọi trở ngại, khó khăn, đem đến ánh sáng hi vọng cho tương lai. Tác phẩm cho thấy giá trị nhân văn, nhân đạo cao cả của tác giả.
Nghị luận Người cầm quyền khôi phục uy quyền (mẫu 3)
“Người cầm quyền khôi phục uy quyền” trích trong tác phẩm “Những người khốn khổ” của Vích-to Huy-gô (1802 – 1885), nhà thơ, nhà tiểu thuyết, nhà soạn kịch vĩ đại thuộc chủ nghĩa lãng mạn văn học Pháp trong thế kỉ XIX.
Đọc “Người cầm quyền khôi phục uy quyền” nhân vật Gia-ve để lại cho ta bao nỗi hãi hùng. Qua cái nhìn, sự nghe thấy và ý nghĩ, cảm xúc của Phăng-tin, tác giả đã khắc hoạ tên mật thám này bằng những nét vẽ vô cùng sâu sắc, đầy ấn tượng.
Khi Phăng-tin đang nằm trên giường bệnh, xung quanh có ông Ma-đơ-len và bà xơ, đó là những người nương tựa tinh thần của người đàn bà khốn khổ này, thì Gia-ve xuất hiện bất ngờ. Phăng-tin tưởng là hắn đến bắt chị nên chị đã “kêu lên hãi hùng”. Cái mặt hắn “gớm ghiếc”. Điệu bộ hắn “man rợ va điên cuồng”. Tiếng của hắn “không còn là tiếng người nói mà là tiếng thú gầm”. Cặp mắt của hắn nhìn “như cái móc sắt “, thật kinh khủng, bởi vì cái nhìn ấy cách đây hai tháng đã “đi thấu vào đến tận xương tuỷ chị”.
Phăng-tin sợ hãi “rùng mình” khi tên hung thần tiến vào giữa phòng và “hét lên “: “Mày cỏ đi không?”. Chị cảm thấy “cả thế giới đang tiêu tan” khi tên mật thám nắm lấy cổ áo ông thị trưởng; và ông thị trưởng cúi đầu. Khi Phăng-tin kêu cứu ông thị trưởng thì Gia-ve “phá cười lên”, cái cười ghê tởm phô ra tất cả hai hàm răng. Cái cười ấy là tiếng gầm gừ của một chó điên, của một con thú dữ sắp vồ mồi! Thật lạnh lùng và ghê sợ khi ta nghe nhà cầm quyền khôi phục uy quyền khẳng định: “Ở đây làm gì còn có ổng thị trưởng nữa!”
Khi Giăng Van-giăng muốn “cầu xin” Gia-ve “một điều” thì hắn bảo phải gọi hắn là “ông thanh tra” và “phải nói to”. Giăng Van-giăng xin Gia-ve “thư cho ba ngày” để đi tìm đứa con cho người đàn bà đáng thương đang nằm trên giường bệnh, thì hắn kêu lên: “Mày nói giỡn! Chà chà! Tao không ngờ mày lại ngốc thế! Mày bảo là để đi tìm đứa con cho con đĩ kia! Á à!..”. Khi Phăng-tin “run lên bần bật” cất tiếng kêu thương gọi Cô-dét gọi ông thị trưởng, thì Gia-ve như một con thú dữ bị trúng thương, hắn “giậm chân”, hắn nhìn Phăng-tin “trừng trừng”, hắn “túm một túm lấy cổ áo và cà vạt” của Giăng Van-giăng, hắn thô lỗ gọi chị Phăng-tin là “con đĩ”, là “đồ khỉ”, hắn ra lệnh bắt chị phải “câm họng”. Với hắn thì không thể nào để tồn tại những nghịch cảnh nơi “cái xứ chó đểu”, mà phải “thay đổi hết”, không thể để nghịch cảnh “bọn tù khổ sai làm ông nọ bà kia, còn lũ gái điếm được chạy chữa như những bà hoàng!” Dưới con mắt Gia-ve thì không thể có cái tên ông Ma-đơ-len, không có ông thị trưởng nào cả, mà “chỉ có một tên kẻ cắp, một tên kẻ cướp, một tên tù khổ sai là Giăng Van-giăng” mà hắn đã bắt được. Người cầm quyền, khôi phục uy quyền là thế!
Lời nói cử chỉ, hành động của tên hung thần Gia-ve đã làm cho Phăng-tin vô cùng kinh sợ, “chị thốt ra tiếng rên”, răng đánh vào nhau “cầm cập”, “chị bỗng ngã vật xuống gối, đầu đập vào thành giường rồi ngoẹo xuống ngực, miệng há hốc, hai mắt mở to và lờ đờ” tắt thở.
Tác giả đã tả cái chết của Phăng-tin để vạch trần bộ mặt độc ác, tàn nhẫn của con người thú – tên mật thám, tên thanh tra Gia-ve.
Trước phản ứng của Giăng Van-giăng như cây bàn tay của Gia-ve đang túm lấy cổ áo mình, nghiêm nghị cảnh cáo tội ác của hắn “đã giết chết” một người đàn bà tội nghiệp, thì hắn “phát khùng hét lên và hăm doạ”. Nhưng trước hành động của ông thị trưởng “giật gãy trong chớp mắt chiếc giường cũ nát”, “cầm lăm lăm cái thanh giường trong tay và nhìn Gia-ve trừng trừng”, thì tên hung thần cũng biết sợ, hắn “lùi ra phía cửa”. Đúng là Gia-ve” run sợ”, hắn sợ người tù khổ sai đập chết.
Cái chết bất đắc kỳ tử của Phăng-tin, phản ứng quyết liệt của Giăng Van-giăng, sự run sợ của Gia-ve là tình huống đầy kịch tính, vừa bị thương, vừa hài hước, mang ít nhiều ý vị triết lí: những kẻ mất tính người, độc ác như thú dữ lại là những kẻ nhát gan nhất và sợ chết nhất! Đúng là Gia-ve sợ chết! Thật là hài hước và mỉa mai: nhà cầm quyền đang hung hăng khôi phục uy quyền thì bất ngờ bị tước mất uy quyền!
Hình ảnh Gia-ve “tay nắm lấy đầu lan can, lương tựa vào khung cửa, mắt không rời Giăng Van-giăng ” khác nào một con chó dữ bị đánh cụp đuôi vẫn không buông mồi!
Sau khi hạ uy thế Gia-ve, Giăng Van-giăng đã dành tất cả tâm hồn mình cho người đàn bà khốn khổ vừa mới chết. Ông “tì khuỷu tay lên thành giường”, ông “đỡ lấy trán” bằng bàn tay, ông ngắm Phăng-tin nằm dài không nhúc nhích. Một nỗi thương xót khôn tả, biểu lộ trong nét mặt và dáng điệu của ông. Ông yên lặng ngồi trước thi thể người đàn bà xấu số. Một lúc sau, trong trạng thái “mơ màng”, ông “cúi ghé lại gần và thì thầm bên tai Phăng-tin”. Những tiếng thì thầm ấy là những lời xót thương.
Cảnh tình cảm động ấy đã được bà xơ Xem-pli-xơ chứng kiến. Và sau này bà thường kể lại rằng ” lúc Giăng Van-giăng thì thầm bên tai Phăng-tin, bà trông thấy rõ ràng một nụ cười không sao tả được hiện trên đôi môi nhợt nhạt và trong đôi mắt xa xăm, đầy ngỡ ngàng của chị khi đi vào cõi chết”.
Tình thương của Giăng Van-giăng thật mênh mông và bao la. Cử chỉ của ông thật trang trọng, thành kính và đầy thương xót. Ông “lấy hai tay nâng đầu Phăng-tin lên đặt ngay ngắn giữa gối như một người mẹ sửa sang cho con”. Giăng Van-giăng thắt lại dây rút cổ áo, vén gọn mớ tóc rồi vuốt mắt cho chị. cử chỉ xót thương và tấm lòng nhân ái của Giăng Van-giăng đã làm cho gương mặt Phăng-tin “như sáng rỡ lên một cách lạ thường”.
Huy-gô viết: “Chết tức là đi vào bầu ánh sáng vĩ đại”. Phải chăng bầu ánh sáng vĩ đại ấy là tình nhân ái bao la, mênh mông của đồng loại, của những người tù khổ sai như Giăng Van-giăng trong cuộc đời.
Cái cử chỉ cuối cùng của Giăng Van-giăng đối với người đàn bà xấu số, tội nghiệp thật vô cùng cảm động. Ông đã quỳ xuống trước hai bàn tay buông thõng ngoài giường của Phăng-tin, “nhẹ nhàng nâng lên và đặt vào đấy một nụ hôn”. Ta khẽ hỏi: Đã mấy ai trong cõi đời xưa nay có cách ứng xử đầy tình thương như người tù khổ sai này?
Câu chuyện được kể trong “Người cầm quyền khôi phục uy quyền” cho thấy bút pháp tự sự đặc sắc của Huy-gô. Các nhà văn của trào lưu lãng mạn, cũng như Huy-gô sử dụng biện pháp tương phản và phóng đại một cách tài tình khi miêu tả nhân vật và biểu hiện sự vật. Gia-ve và Giăng Van-giăng là hai bức hoạ tương phản và phóng đại đầy ấn tượng làm nổi bật ánh sáng và bóng tối, lòng nhân ái và sự độc ác, tình người và bản năng thú dữ. Những so sánh, những ẩn dụ được tác giả sử dụng sắc nét, tài tình. Nhân vật Giăng Van-giăng và cái chết của Phăng-tin đã làm cho trang văn của Huy-gô dào dạt cảm hứng nhân văn; chứa chan tinh thần nhân đạo.
Nghị luận Người cầm quyền khôi phục uy quyền (mẫu 4)
Vích-to Huy-gô(1802-1885) là một thiên tài nở sớm và rọi sáng từ đầu thế kỉ XIX cho đến nay, ông là một người suốt đời có những hoạt động xã hội và chính trị tác động mạnh mẽ tới những nhân vật và khuynh hướng tiến bộ của thời đại. Ông được công nhận là danh nhân văn hóa thế giới. Một số tác phẩm của ông được cả thế giới biết đến như: “Nhà thờ Đức Bà Pari” (1831); “Những người khốn khổ”(1862); “Chín mươi ba”(1874). Trong số những tác phẩm của ông thì “Những người khốn khổ” là bộ tiểu thuyết được nhân loại biết đến nhiều nhất trong kho tàng sáng tác của Huy-gô.
Tác phẩm được chia thành năm phần thì đoạn trích “Người cầm quyền khôi phục uy quyền” nằm ở cuối phần thứ nhất, phản ánh sự đối lập giữa cái thiện và cái ác, giữa cường quyền và nạn nhân. Qua đó, tác giả phê phán lên án cường quyền và khơi dậy mối đồng cảm, xót thương đối với những người khốn khổ.
Huy- gô tập trung thể hiện tư tưởng của mình thông qua Giăng Van-giăng – nhân vật chính của tác phẩm, một người coi tình thương và lòng nhân đạo là tất cả được thể hiện qua câu nói của ông khi nói với Ma-ri-uýt và Cô-dét: “Trên đời chỉ có một điều ấy thôi, đó là thương yêu nhau”. Đoạn trích có thể chia thành ba phần: Phần một ( Từ đầu đến “chị rùng mình”), đoạn này muốn nói đến Ma-đơ-len tức Giăng Van-giăng chưa mất hẳn uy quyền của một ông thị trưởng. Đoạn 2 (Tiếp theo đến “Phăng-tin đã tắt thở”), ý chính của đoạn này là thị trưởng Ma-đơ-len đã mất hết uy quyền của mình trước tên thanh tra mật thám Gia-ve. Đoạn cuối cùng là phần còn lại, ý của đoạn này là thị trưởng Ma-đơ-len đã khôi phục được uy quyền của mình.
Trong tác phẩm, Huy-gô bằng nghệ thuật tài tình đã khắc họa được hai nhân vật với hai nét tính cách trái ngược nhau, Giơ-ve tiêu biểu cho sự độc ác còn Giăng Van- giăng thể hiện cho tình thương và sự nhân đức. Ông luôn sẵn sàng hi sinh bản thân vì người khác, dồn hết tình thương và sự lo lắng của mình cho người đàn bà khốn khổ Phăng-tin. Khi Gia-ve đến Giăng Van-giăng biết chắc là hắn đến để bắt mình nên trấn an Phăng-tin: “Cứ yên tâm. Không phải nó đến bắt chị dâu” rồi quay sang nói với Gia-ve: “Tôi biết anh muốn gì rồi”. Hành động này cho thấy Giăng Van-giăng rất lo lắng đến sự sống của Phăng-tin. Ông còn chấp nhận hạ mình để xin với Gia-ve: “Xin ông thư cho ba ngày! Ba ngày để tìm đứa con cho người đàn bà đáng thương kia! Phải trả giá thế nào tôi cũng chịu”. Ông xin như vậy vì ông biết rằng với Phăng-tin thì Cô-dét – con gái của cô là tất cả, chỉ cần tìm được Cô – dét thì cũng là một cách để níu giữ sự sống của Phăng-tin. Nhưng khi cô nghe chứng kiến sự hống hách và những lời nói ngỗ ngược của Gia-ve thì cô hiểu rằng Giăng Van-giăng đã không còn sức mạnh để có thể là chỗ dựa cho cô như trước nữa: “Hắn nhìn Phăng-tin trừng trừng, lại túm một túm lấy cổ áo và cà vạt của Giăng Van-giăng, nói thêm: Tao đã bảo không có ông Ma-đơ-len, không có ông thị trưởng nào cả. Chỉ có một kẻ cắp, một tên kẻ cướp, một tên tù khổ sai là Giăng Van-giăng!”. Nghe xong Phăng-tin rất đau khổ và tuyệt vọng và cô đã tắt thở. Đến đây thái độ của Giăng Van-giăng đã không còn sự hạ mình như trước nữa, ông thể hiện sự mạnh mẽ bằng hành động “giật gẫy trong chớp mắt chiếc giường cũ nát[…], ông cầm lăm lăm cái thanh giường trong tay và nhìn Gia-ve trừng trừng”. Lúc này Gia-ve đã mất hẳn đi sự hách dịch, thực sự run sợ và lùi ra phía cửa. Sự mạnh mẽ của Giăng Van-giăng còn được thể hiện qua câu nói với Gia-ve: “Tôi khuyên anh đừng quấy rầy tôi lúc này”. Ông như quên đi sự có mặt của Gia-ve và ngồi xuống cạnh Phăng-tin, “Giăng Van-giăng tì khuỷu tay lên thành giường, bàn tay đỡ lấy trán, ngắm Phăng-tin nằm dài không nhúc nhích. Ông ngồi như thế mải miết, yên lặng[…]. Trong nét mặt và dáng điệu ông cho thấy một nỗi xót thương xót khôn tả”, hành động của ông như thể hiện sự đau xót vô cùng nhưng bất lực không giúp gì được, cũng có thể là ông đã thầm hứa với Phăng-tin là sẽ tìm được con gái của cô bằng bất cứ giá nào. Qua ngòi bút của tác giả, Giăng Van-giăng hiện lên với một tấm lòng chan chứa yêu thương và sự đồng cảm.
Đối ngược với Giăng Van-giăng là hình ảnh của Gia-ve – một con người tàn nhẫn và độc ác. Hình ảnh đầu tiên về nhân vật này là “cặp mắt nhìn như cái móc sắt” và tiếng hát “Mau lên”, như Huy-gô viết cái nhìn ấy hắn từng quen kéo giật vào hắn bao kẻ khốn khổ. Rồi đến hành động “nắm lấy cổ áo ông thị trưởng” và cái cười ghê tởm, phô ra tất cả hai hàm răng. Tất cả những chi tiết này như những bức hình nhỏ ghép nên một bức tranh về chân dung và những nét tính cách ghê rợn của hắn. Không những thế, Huy-gô còn tập trung khắc họa sự hách dịch và tàn nhẫn, vô lương tâm của Giơ-ve, thể hiện ở việc bắt Giăng Van-giăng gọi là “ông thanh tra”, khi Giăng Van-giăng muốn xin với hắn một điều thì hắn tỏ thái độ hống hách yêu cầu phải nói to trong khi Giăng Van-giăng xin chỉ nói cho một mình hắn nghe. Nội tâm ác độc của hắn còn được Huy-gô khắc họa qua thái độ và cách ứng xử của hắn trước Phăng-tin, người đàn bà tội nghiệp đang hấp hối và trước cái chết của cô. Hắn chẳng thèm quan tâm Phăng-tin đang hấp hối mà cứ quát tháo ầm mĩ đòi bắt Giăng Van-giăng đi. Hắn như vô cảm trước tiếng kêu thảm thiết của Phăng-tin: “Giờ lại đến lượt con này! Đồ khỉ có câm họng đi không? Cái xứ chó đểu gì mà bọn tù khổ sai làm ông nọ ông kia, còn lũ gái điếm được chạy chữa như những bà hoàng! Nhưng này, sẽ thay đổi hết, đã đến lúc rồi đấy!”. Đến khi Phăng-tin tắt thở hắn vẫn tỏ thái độ lạnh lùng, tiếp tục quát tháo Giăng Van-giăng: “Đừng có lôi thôi! Tao không đến đây để nghe lí sư […], đi ngay không thì cùm tay lái. Tính cách của Giơ-ve có thể ví như một con ác thú, trái ngược hoàn toàn với Giăng Van-giăng.
Qua đoạn trích “Người cầm quyền khôi phục uy quyền” Huy-gô muốn gửi gắm những tình cảm cao đẹp và tư tưởng tiến bộ của ông. Với một câu chuyện đầy kịch tính với nhiều hình tượng tương phản, ông muốn mang đến cho người đọc một thông điệp: “Trong hoàn cảnh bất công và tuyệt vọng, con người chân chính vẫn có thể bằng ánh sáng của tình thương đẩy lùi bóng tối của cường quyền và nhen nhóm niềm tin vào tương lai”.
Nghị luận Người cầm quyền khôi phục uy quyền (mẫu 5)
Trong một xã hội mà thi pháp luật và phong hóa còn đầy đọa con người, dựng lên những địa ngục tăm tối, đưa thứ định mệnh nhân tạo trở thành thiên tạo. Nảy sinh ra ba vấn đề to lớn của thời đại đó là sự đầy đọa của đàn ông vì bán sức lao động, sự trụy lạc của đàn bà vì đói khát. Tác phẩm Những người khốn khổ của Hugo ra đời và còn ngự trị mãi trong đời sống tinh thần của nhân loại. Trong đó có đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền nằm ở phần đầu của tiểu thuyết đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc.
Đoạn trích xây dựng các nhân vật chính là Gia-ve , Giăng-van- giăng và Phăng Tin. Cuộc đối thoại của họ mà tác giả xây dựng tạo nên sự khác biệt, đối lập giữa hai tính cánh, hai con người. Trước khi Phăng- tin chết , Giăng-van- giăng luôn là con người điềm tĩnh, giọng nói nhẹ nhàng, vẻ mặt bình thản luôn cúi đầu trái ngược với Gia-ve một kẻ man rợ, điên cuồng hét lên như tiếng thú gầm cùng đôi mắt như mọc sắt trừng trừng, hắn cười nụ cười ghê tởm phô ra hai hàm răng,giậm chân tức tối tiến đến túm lấy cổ áo Giăng Van- giăng nhưng Giăng-van- giăng không cố gỡ tay Gia-ve ra khỏi cổ áo, anh luôn nhẫn nại, bền chí và hiên ngang vô cùng.
Ở đây, tác giả sử dụng nghệ thuật tương phản đối lập, so sánh có hướng phóng đại chân dung hai nhân vật. Khiến hai nhân vật hiện lên đầy chân thực: Gia-ven như một loài ác thú , còn Giăng-van- giăng là một người lịch sự và ôn nhu. Vị thế của hai nhân vật trong tình huống này cũng bị đảo lộn, Giăng-van- giăng trở thành kẻ tù khổ sai còn Gia-ve trở thành người truy tìm tội phạm. Dường như uy quyền của y đã được khôi phục, y dùng cường quyền, bạo quyền đề chiến thắng những con người nhỏ bé, ít có sự chống đỡ bằng cách truy đuổi, lùng sục , dọa nạt như một con thú dữ tìm mồi của mình.
Tình thế trong đoạn trích bỗng đảo ngược khi Phăng-tin chết trước mặt hai nhân vật Giăng-van- giăng và Gia-ve. Chứng kiến Phăng-tin nằm trên giường,Gia-ve hét lên ghê gớm, giật lùi người ra phía cửa , run sợ, y bỗng đứng lại , tay nắm chặt cầu thang, mắt không rời Giăng-van- giăng. Có lẽ chính những hành động và sự sợ hãi, run rẩy ấy đã tước đoạt đi sức mạnh và quyền uy của chính hắn. Còn Giăng-van-giăng, vẫn giữ thái độ điềm đạm, để tay lên tay Gia-ve, cạy như cắn tay trẻ con. Đi tới, giật gãy giường, cầm thanh sắt. Khuyên ngăn Gia-ve với lời nói ôn nhu, cách nói điềm tĩnh nhưng thái độ vô cùng cương quyết.
Gia-van- giăng tì khuỷu tay lên thành giường bàn tay đỡ Phăng-tin, xót thương cho hoàn cảnh của cô. Anh thay vì nghĩ cho mình, anh nghĩ cho Lăng-ten nhiều hơn. Chính lòng vị tha ấy đã chiến thắng nỗi sợ hãi, chiến thắng cường quyền. Lúc này Gia-ve trở nên run sợ, Giăng-van- giăng trở nên vững vàng hơn, bản lĩnh hơn. Uy quyền đã được khôi phục lần hai. Với Gia-ve hắn bị tước đoạt uy quyền bằng sự đớn hèn còn Giăng-van- giăng tự khôi phục ngôi vị của mình bằng bản lĩnh và tình yêu thương vô điều kiện , lòng vị tha, cao thượng. Có lẽ sự chiến thắng ấy là uy quyền của lòng nhân hậu, của cái đẹp.
Sự đối lập tương phản giữa hai nhân vật không chỉ ở đối thoại trực tiếp mà còn thể hiện ở cách cư xử. Gia-ven luôn miệng chửi Phăng-tin là ” con này, đồ khỉ,…” lăng mạ bằng lời nói thô bỉ, đầy mạt sát, chà đạp con người. Ngược lại Giăng-van- giăng gọi là chị, người đàn bà đáng thương, cúi gầm thì thầm bên tai hứa rằng sẽ tìm Cô- dét. Nụ cười của Phăng-tin tay yếu ớt nhưng đầy sự cảm kích với ân nhân của mình. Phăng-tin cảm kích những cử chỉ chăm sóc dịu dàng, yêu thương, gương mặt bà sáng lên , trút lại cõi dương trần mọi khổ ải, mọi đớn đau và đi vào phục sinh. Những hành động của Giăng-van- giăng là sự cứu rỗi, hiện lên trong thiên mệnh của đức chúa trời. Và khi lấy lại được quyền uy của mình, cũng là lúc Giăng-van- giăng hoàn thành sứ mệnh của mình, ban phát lòng yêu thương cho mọi người.
Đoạn trích Người cầm quyền lấy lại uy quyền là một trong những đoạn tiêu biểu trong tiểu thuyết Những người khốn khổ. Đoạn trích trao gửi đến cho chúng ta một thông điệp: sức mạnh tình yêu có khả năng hoán cải xã hội, mang lại bao hạnh phúc và cứu vớt khổ đau.
Nghị luận Người cầm quyền khôi phục uy quyền (mẫu 6)
Vích-to Huy-gô đã chứng kiến những biến- động lớn lao của nước Pháp gần suốt thế kỉ XIX. Ông đã dần trở thành “nhân vật trung tâm của chủ nghĩa lãng mạn tiến bộ Pháp”. Những tác phẩm của ông thấm nhuần tinh thần nhân đạo chủ nghĩa, tiêu biểu là Những người khốn khổ. Đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền trong cuốn tiểu thuyết bất hủ này của Huy-gô thể hiện tập trung cảm hứng phê phán và xót thương, phê phán sự tàn ác, vô nhân đạo và xót thương những con người khốn khổ.
Những người khốn khổ (1862) được thai nghén từ năm 1823, trải qua nhiều năm chuẩn bị cống phu, mãi đến ngày 21-5- 1861 mới viết xong. Những bước thăng trầm của lịch sử đã tác động đến tư tưởng nhà văn trong cả quá trình hư cấu, xây dựng, sửa chữa. Bộ “tiểu thuyết nhân dân”, bản “anh hùng ca của những con người bình thường” này chỉ có thể hoàn thành vào thời kì nhà văn chiến đấu bất khuất vì Công lí, Tự do.
“Khi trên mặt đất, dốt nát và khốn khổ còn tồn tại, thì những quyển-sách như loài này còn có thể không phải là vô ích” (Huy-gô). Tác phẩm đã gợi lên lòng thương vô hạn những kẻ khốn cùng trong xã hội và cố gắng mở ra con đường giải quyết số phận của họ. Huy-gô đã khẳng định một điều là chỉ có những con người khốn khổ mới thật sự yêu thương nhau. Tiếng kêu thảm thương của những cháu bé đang đói lả thôi thúc Giăng Van-giăng phải đập vỡ kính lấy trộm miếng bánh-cho các cháu. Phăng-tin mất việc làm phải bán cả tóc lẫn răng để nuôi đứa con nhỏ. Van-giăng phải đi cứu Sin-dia-chi-ơ khói nanh vuốt của tòa án. Họ quên mình vì nghĩa đến người khác.
Tình mẹ con Phăng-tin – Cô-dét, tình cha con Van-giăng – Cô-dét, tình yêu của E-pô- zin và tình đồng chí của những con người ở xóm thợ Xanh Ăng-toan, Hơi mà “những nỗi nghèo khổ và cảm hờn ẩn náu”, những mối tình cao thượng ấy không phải ngẫu nhiêu mà chúng ta chỉ thấy ở những người khốn khổ, bất hạnh. Họ cần phải phản không lại trật tự xã hội bất công. Van-giăng phải vượt ngục, Phăng-tin phải kháng cự Gia-ve. Và cao hơn hết là phải cùng nhau đứng về phía cách mạng, -một sống một chết với kẻ thù. Huy-gô đã khắc họa những gương mặt không phai mờ, những con người đau khổ nhìn về tương lai, sinh động hơn cả những người đang sống. Giá trị hiện thực chính là những con người đang sống thúc đẩy tác giả miêu tả.
Người cầm quyền khôi phục uy quyền là một đoạn trích trong tiểu thuyết Những người khốn khổ của Vích-to Huy-gô. “Người cầm quyền” ở đây ứng với nhân vật Giăng Van-giăng hay Gia-ve ? Lâu nay, Gia-ve vẫn một mực phục tùng ông thị trưởng, tuy có lúc nghi ngờ ông chính là tên tù khổ sai Giăng Van-giăng. Bây giờ, Giăng Van-giăng đã trở lại với tên họ thật của mình nên gã thanh tra mật thám “khôi phục” quyền hành của hắn. Như vậy có thể nghĩ “người cầm quyền” ứng với nhân vật Gia-ve. Nhưng xét riêng đoạn trích tiểu thuyết chiếm trọn vẹn mục này, tên thanh tra mật thám đang hống hách với Giăng Van-giăng, bỗng phải nem nép nghe theo Giăng Van-giăng… thì người “khôi phục uy quyền” chính là Giăng Van-giăng. Khả năng thứ hai có sức thuyết phục hơn.
Trong toàn bộ tác phẩm, đặc biệt là trong đoạn trích này, nhà văn có dụng ý miêu tả nhân vật Gia-ve như một loài cầm thú: Diện mạo “ác thú”, “chó dữ”, “cọp”,… chỉ “còn chút gần nhân loại” ở chỗ đôi lúc hút thuốc. Bộ dạng, ngôn ngữ, hành động: thoạt tiên là tiếng thét “Mau lên !” với lời bình của người kế chuyện: “Không còn là tiếng người nói mà là tiếng thú gầm”. Hắn vừa gần vừa như thôi miên con mồi, “cứ đứng lì một chỗ”, phóng vào con mồi “cặp mắt nhìn như cái móc sát”. Sau đó hắn mới lao tới phía con mồi, ngoạm lấy cổ con mồi (rúm lấy cổ áo), hắn đắc ý phá lên cười, nhưng là “cái cười ghê tởm phô ra tất cả hai hàm răng”.
Người kể chuyện cố ý khắc họa “thế giới nội tâm” của con thú Gia-ve qua thái độ, cách xử sự của hắn trước người bệnh. Chẳng quan tâm tới người bệnh nặng là Phăng-tin, hắn cứ quát tháo trong bệnh xá. Chẳng cần biết Phăng-tin gần đất xa trời chỉ còn bấu víu vào cuộc sống ở chỗ tưởng rằng ống Thị trưởng đã chuộc được Cô-dét về cho chị, hắn đã tàn nhẫn nói toạc ra: “mày nói giỡn ! Chà chà (…) tốt thật đấy. Nhưng còn ông thị trưởng thì chị vẫn hi vọng sẽ gặp được con. Hắn dập tắt nốt tia hi vọng cuối cùng của Phăng-tin bằng cách tuyên bố thẳng thừng là ở đây chẳng còn ai là ông thị trưởng nửa “Thế giới nội tâm” của con thú Gia-ve còn thể hiện qua thái độ, cách xử sự của hắn trước nỗi đau của tình mẫu tử. Đã là người, ai đứng trước nỗi đau ấy chắc cũng phải mủi lòng. Gia-ve ngược lại, vẫn lòng lim dạ đá. Trước tiếng kêu tuyệt vọng của Phăng-tin , Gia-ve đã quát: “Giờ lại đến lượt con này…”
Trước người chết, Gia-ve không những không mảy may xúc động mà hắn vẫn tiếp tục quát: “Đừng có lôi thôi ! Tao không đến đây để nghe lí sự…” Khắc họa nhân vật Gia-ve với bản tính của loài cầm thú,Vích-to Huy-gô muốn kịch liệt phê phán cái ác, sự vô nhân đạo đang có nguy cơ hoành hành trong xã hội.
Trái ngược với tính cách của Gia-ve là nhân vật Giăng Van-giăng. Nhà văn chú ý khắc họa những nét tinh tế trong ngôn ngữ và hành động của Giăng Van-giăng đối với Phăng-tin và đối với Gia-ve, tất cả đều nhằm mục đích cứu vớt Phăng-tin trong lúc bệnh tình nguy kịch. Khi Gia-ve xuất hiện, ông biết hắn đến để bắt mình, nhưng nói thế nào đây để Phăng-tin yên tâm ? Sự thể sẽ ra sao nếu thay cho câu Tôi biết là anh muốn làm rồi” bằng câu “Tôi biết hắn đến để bắt tôi rồi”. Phần thứ hai của đoạn trích, khi Phăng-tin đã biết rõ sự thật, Giăng Van-giăng cứ muốn nói nhỏ, nói riêng với Gia-ve. Giăng Van-giăng không phải sợ Gia-ve mà sợ người đàn bà xấu số không còn có thể sống được nữa.
Cho đến phần cuối của đoạn trích, Giăng Van-giăng thì thầm bên tai Phăng-tin lúc ấy đã chết rồi. Người kế chuyện không rõ nhưng chúng ta đoán biết được ông đã thầm hứa với Phăng-tin sẽ tìm mọi cách cứu cô-dét cho chị về sau, Giăng Van-giăng đã thực hiện được lời hứa ấy. Qua hai nhân vật Phăng-tin và Giăng Van-giăng, V. Huy-gô đã thể hiện tình thương của mình đối với những con người đau khổ, bất hạnh.
Hai tính cách trái ngược nhau của Gia-ve và Giăng Van-giăng là hai đại diện đối lập giữa tình thương. Nếu Gia-ve luôn “hoài nghi” và có thái độ ngang ngược, hống hách thì Giăng Van-giăng lại là một người đàn ông sống có trách nhiệm và luôn thường trực một tình thương cao cả đối với những người nghèo khổ, ở nhân vật Giăng Van-giăng, hiện hữu trong phẩm chất con người ấy là lẽ sống tình thương. Ông có một khát vọng muốn xua tan nỗi đắng cay, oan trái ở những con người khốn khổ bằng tình thương. Với một tâm hồn cao thượng như vậy, Giăng Van-giăng luôn cận kề bên cạnh bao cảnh sống cơ hàn. Lẽ sống của ông đã che chở và nâng đỡ bao cảnh đời tủi nhục. Đối với Giăng Van-giăng, tình người, tình đời thật lớn lao. Ông chính là đại diện của lẽ sống vì tình thương.
Tính cách ấy trái hẳn với Gia-ve, một kẻ không có tình người Với chức thanh tra, hắn luôn tác oai, tác quái và gây ra bao nhiêu hậu quả khốc liệt. Cái chết của bà Phăng-tin vì tuyệt vọng cũng do sự tàn nhẫn và thiếu lương tâm của Gia-ve mới tạo nên cơn giằng xé đến nỗi bà phải chết. Trong đoạn trích, nhân vật Phăng-tin hiện lên là một người mẹ nghèo khổ, tình cảnh đến mức bi đát. Phăng-tin có con gái là Cô-đét nhưng số phận đã chia lìa hai mẹ con dẫn đến nỗi đau giằng xé trong cõi lòng người mẹ. Xuất hiện trong đoạn trích nhân vật Phăng-tin tỏ ra là một người ốm yếu và bao trùm lên tâm trạng là sự lo lắng cho sứ mệnh của mình và cuộc đời người con gái duy nhất. Đặc biệt, khi có mặt của Gia-ve, lời nói và hành động hiện lên nỗi nơm nớp lo sợ của một người phụ nữ yếu đuối.
Nhà văn đã miêu tả Phăng-tin trong cơn tuyệt vọng bằng những điệu bộ của một người sắp chết. Phăng-tin cố gắng chống chọi lại với tử thần vì còn chút sức mạnh của tình yêu thương mà người mẹ dành cho người con gái. Hoạt động cuối cùng của người đàn bà khốn khổ ấy gây xúc động mạnh đến trái tim người đọc và để lại ấn tượng thương xót khôn nguôi. Có được ấn tượng ẩy là vì tác giả đã khắc họa nhân vật bằng tài năng nghệ thuật của mình làm cho nhân vật hiện lên những nét cơ cực nhất ngay cả những giây phút cuối cùng của cuộc đời.
Vai trò của nhân vật Phăng-tin là góp phần làm cho cốt truyện thêm sâu sắc và hấp dẫn. Xuất phát từ số phận nghiệt ngã và oan trái của nhân vật này đã lôi kéo Giăng Van-giăng vào cuộc để rồi nội dung câu chuyện dần dần biến đổi, Giá như Phăng-tin khủng trở nên ốm yếu và bất lực trước số phận thì chưa hẳn đã có một Giăng Van-giăng hào phóng và giàu tình thương như vậy.. Đoạn trích thể hiện tư tưởng nhân đạo của nhà văn. Bằng việc khắc họa các hình tượng nhân vật, tác giả muốn gửi tới người đọc thông điệp của lẽ sống tình thương. Nhà văn đã lên tiếng bênh vực cho lẽ sống ấy, qua đó thể hiện thái độ phê phán những thế lực đã ngăn chặn và đè nén khát vọng sống cao quý của con người. – Phăng tin đã chết rồi,vậy mà trên đôi môi nhợt nhạt của chị vẫn nở nụ cười. Thực tế là vô lí. Nhưng người duy nhất chứng kiến và phát hiện điều đó là bà Xem-pli (bà là người không bao giờ biết nói (dối). Kết hợp với chi tiết Giăng Van- giăng thì thầm bên tai Phăng-tin thì đấy lại là một ảo tưởng có thể xảy ra.
Người chết mà khuôn mặt còn rạng rỡ, điều đó cũng vô lí. Nhưng người kể chuyện khi kể đến đây đã rất xúc động trước tình cảm của Giăng van-giăng đối với Phăng-tin, tưởng chừng thấy khuôn mặt người chết rạng rỡ hẳn lên. Đấy cũng là một ảo tưởng có thế có thật. Nhà văn đã xây dựng chi tiết này với ngòi bút hết sức lãng mạn.
Qua câu chuyện đầy éo le, oan trái với những tính cách trái ngược, nhà văn muốn gửi gắm một thông điệp: Cuộc sống khi phải đối diện với những bất công và tuyệt vọng, con người có thể sưởi ấm và che-chở cho nhau bằng tình thương. Chỉ có tình thương mới có thể đẩy lùi thế lực hắc ám của cường quyền và thắp lên niềm hi vọng tươi sáng ở tương lai.
Nghị luận Người cầm quyền khôi phục uy quyền (mẫu 7)
V.Huy-gô là một con người đa tài, ông không chỉ là một nhà thơ mà còn là nhà tiểu thuyết, nhà soạn kịch, ở lĩnh vực nào ông cũng để lại những tác phẩm xuất sắc. Tuy xuất thân từ gia đình hoàng tộc nhưng bản thân ông lại luôn đứng về phía nhân dân, chống lại chính quyền phong kiến. Những người khốn khổ là tác phẩm làm nên tên tuổi của ông, vinh danh ông là người bạn chuyên viết về những người khốn cùng trong xã hội. Đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền tuy chỉ là trích đoạn ngắn nhưng cũng bộc lộ đầy đủ bút pháp lãng mạn, cũng như tư tưởng nhân văn cao cả của V.Huy-gô.
Đoạn trích thuộc chương IV, quyển 8 phần I, đây là trích đoạn có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Sau khi ra khỏi tù, nhận được sự giúp đỡ từ giám mục, Giăng Van-giăng đã trở thành một con người lương thiện, ông đổi tên thành Ma-đơ-len giúp đỡ mọi người có công ăn việc làm, bản thân được yêu quý và được bầu làm thị trưởng. Bản tính lương thiện, khiến ông không thể để mặc cho Săng-ma-chi-ơ bị bắt oan nên ông quyết định ra đầu thú, thú nhận chính mình là Giăng Van-giăng. Đoạn trích là cuộc đối đầu đầy kịch tính giữa thiện và ác, giữa Giăng Van-giăng và tên ác thú Gia-ve.
Đoạn trích có nhan đề “Người cầm quyền khôi phục uy quyền” vậy ở đây ai là người cầm quyền và khôi phục uy quyền. Gia-ve vốn là tay sai, là kẻ cầm quyền đi thực thi pháp luật. Còn Giăng Van-giăng lại là người tù khổ sai, phải phục tùng Gia-ve. Nhưng trong cuộc chạm trán giữa cái thiện và cái ác, Gia-ve đã phải sợ hãi, nhún nhường trước cái Thiện – Giăng Van-giăng. Cái thiện khôi phục uy quyền của mình, qua đó tác giả đã khẳng định và làm nổi bật chủ đề của tác phẩm.
Gia-ve hiện lên mang diện mạo của một con ác thú, bộ mặt gớm ghiếc, nhìn vào hắn có cảm tưởng như không thể chịu đựng được, người muốn lịm đi. Giọng điệu cộc lốc, thô lỗ, không chỉ vậy còn man rợ khi hắn điên cuồng hét lên, dường như ta không thể phân biệt đó là tiếng người hay tiếng thú. Ánh nhìn của hắn cũng làm người ta sởn gai ốc, nó tựa như một cái móc sắt. Nụ cười ghê tởm, phô ra hai hàm răng gớm ghiếc. Qua những nét phác họa hết sức điển hình, đã cho người đọc một hình dung chân thật về chân dung “quái thú” Gia-ve. Ở hắn, chỉ duy nhất có một hành động khiến người ta vẫn biết hắn là người chính là hành động hút thuốc. Ở đây V.Huy-gô đã sử dụng bút pháp tả thực để lột tả một cách chân thực đầy đủ nhất diện mạo của Gia-ve.
Không chỉ gớm ghiếc trong nhân hình mà hắn còn độc ác, man rợ trong nhân tính, trong cách hành xử với người khác. Trước người bị bệnh hắn ta không hề quan tâm đến sức khỏe của họ, mà vẫn ra sức quát tháo, khiến ai nấy đều khiếp sợ, giọng điệu hằn học, ngang ngược: “Giờ lại đến lượt con này”. Không dừng lại ở đó hắn còn nói ngay sự thật về Cô-dét và ông thị trưởng khiến cho chị Phăng-tin bị một cú sốc lớn về mặt tinh thần. Chính những lời nói, hành động không chút nhân tính của Gia-ve đã dẫn đến cái chết đầy thương tâm của Phăng-tin. Dù vậy hắn vẫn không mảy may xót thương, vẫn lạnh lùng thực thi nhiệm vụ, không hề động lòng thương cảm, “đừng có lôi thôi! Tao không đến đây để nghe lí sự”. Gia-ve mang trong mình bản tính tàn nhẫn, như một con ác thú. Đối với hắn trong xã hội chỉ có hai loại người có tội và không có tội, hắn là một công chức mẫn cán, thực hiện mọi chỉ thị của bọn tư sản. Và chính từ đó đã sản sinh ra một con quái thú đội lốt người mang tên Gia-ve.
Trái ngược lại với Gia-ve, lại là một Giăng Van-giăng sống trách nhiệm và đầy tình yêu thương đối với mọi người xung quanh. Trước khi chị Phăng-tin qua đời, ông vô cùng nhẹ nhàng, nhún nhường trước những lời lẽ cũng như hành động của Gia-ve đối với mình. Khi Ga-ve nắm lấy cổ áo Giăng Van-giăng, ông chỉ kính cẩn nói với Gia-ve: “Thưa ông tôi muốn nói riêng với ông câu này”. Lời lẽ hết sức nhún nhường, miễn sao để không bị ảnh hưởng đến người bị bệnh. Lời lẽ với chị Phăng-tin cũng rất nhẹ nhàng, tinh tế, tránh để cho Phăng-tin biết sự thật: “Tôi biết anh muốn gì rồi”. Mọi lời lẽ, hành động nhún nhường đó tất cả đều là vì Phăng-tin, ông không muốn cô gái đó đang sống trong mong manh hi vọng lại bị dập tắt bởi thực tế phũ phàng. Trong giây phút nguy hiểm đến tính mạng bản thân ông vẫn không màng, vẫn chỉ một mực suy nghĩ cho những người xung quanh mình.
Khi Phăng-tin tắt thở, thái độ của Giăng Van-giăng đối với Gia-ven đã thay đổi hẳn, đó là sự cương quyết, dứt khoát: “anh đã giết chết người đàn bà này rồi đó” và cảnh cáo Gia-ve: “Tôi khuyên anh đừng quấy rầy tôi lúc này”. Thái độ đó là bởi tình thương, sự xót xa dành cho Phăng-tin quá lớn. Ông dùng mọi cách, kể cả đối đầu với Gia-ve để được nán lại ít phút bên Phăng-tin tạm biệt người phụ nữ với số mệnh đầy đau khổ, bất hạnh. Ông vuốt mắt cho chị, gương mặt “Phăng –tin như rạng rỡ lên một cách lạ thường”. Tình yêu thương của Giăng Van-giăng khiến cho tất cả mọi người đều phải cảm mến, kính phúc. Và sau giây phút đó, Giăng Van-giăng chủ động, bình tĩnh nói “Giờ thì tôi thuộc về anh”. Thái độ hết sức hiên ngang, chủ động, ung dung.
Đoạn trích đã sử dụng nghệ thuật so sánh, đối lập tài tình, đó là sự đối lập giữa cái thiện và cái ác, cái nhân văn với cái thấp hèn, qua đó làm nổi bật tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Bút pháp lãng mạn được vận dụng tài tình, đặc biệt là qua hình ảnh nụ cười rạng rỡ nở trên môi Phăng-tin ngay khi chị đã qua đời. Đan xen trong lời kể là những lời bình luận ngoại đề, bộc lộ suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc của người viết, đây cũng là một cách định hướng cho người đọc.
Đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền, đã tái hiện chân thực cuộc đối đầu đầy gay go giữa cái thiện và cái ác. Đồng thời qua đó đã gửi gắm thông điệp đầy ý nghĩa: Lòng nhân ái, tình yêu thương con người có thể giúp ta vượt qua mọi trở ngại, khó khăn, đem đến ánh sáng hi vọng cho tương lai. Tác phẩm cho thấy giá trị nhân văn, nhân đạo cao cả của tác giả.
Nghị luận Người cầm quyền khôi phục uy quyền (mẫu 8)
Vích to Huy Gô là nhà thiên tài vĩ đại của thế giới, các tác phẩm của ông mang giá trị to lớn của mọi thời đại, từ xưa đến nay mọi người biết đến ông với tư cách ông là một nhà văn với một sự hiểu biết rộng lớn và có trí thông minh vô thường, nổi bật trong sự nghiệp sáng tác của ông đó là tác phẩm Nhà cầm quyền khôi phục uy quyền.
Trong bài đã phản chiếu những nhân vật có số phận và tính cách hoàn toàn trái ngược nhau, như của Gia-ve và Giăng van giăng, cách miêu tả tính cách nhân vật cụ thể và nó lột tả được rất chi tiết những hình ảnh mang giá trị của một bài văn, trong nhân vật Gia Ve chúng ta thấy nhiều những chi tiết phản ánh được nhân vật này là một người man rợ, với những chi tiết được bộc lộ rõ trong bài đó là những tiếng nói tiếng cười, và tiếng hét đối với những người đàn bà khốn khổ, chi tiết “Gia-ve tiến vào giữa phòng và hét lên: thế mày ! mày có đi không?”. Điều đó đã làm cho người đàn bà khốn khổ lo sợ và run rẩy. Những hành động của hắn đã mang những nét ghê rợn của kẻ cầm thú, với điệu cười khoe cả hàm răng, những chi tiết này được tác giả mô tả rất cụ thể và chi tiết nó phản ánh mạnh mẽ được tầm triết lý trong nghệ thuật miêu tả nhân vật của tác giả.
Đối lập với nhân vật Gia ve là nhân vật Giăng Van Giăng, có thể thấy rằng ông là một người có vẻ điềm tĩnh và hết lòng vì Phăng Tin, trong đoạn đầu, đây là những chi tiết miêu tả khi ông vẫn còn những quyền lực trong tay nhưng mọi hành động và lời cầu xin của ông chúng ta thấy xuất hiện trong đoạn văn đầu là đều vì Phăng Tin, có thể thấy ông đã hành động đến khi Phăng Tin chết Giăng Van Giăng cũng là là người vô cùng cứng rắn ông không sợ hãi gì Gia Ve những hành động cương quyết và tự tin giao tiếp của ông đã thể hiện mạnh mẽ được điều đó. Tất cả nó đều hàm chứa sâu sắc trong lòng của tác giả khi miêu tả sự đối lập giữa hai nhân vật với những tính cách hoàn toàn trái ngược nhau. Giá trị của tác phẩm để lại cho nhân loại là nghệ thuật miêu tả nhân vật vô cùng phong phú.
Với những hình ảnh mà tác giả sử dụng để so sánh và ẩn dụ khi nói về sự đối lập giữa hai nhân vật này cũng phản ánh được phần lớn giá trị to lớn của tác phẩm, Gia Ve với những hình ảnh được miêu tả ở trên cười thì hở cả hàm răng, với những động tác quát tháo, chúng ta có thể thấy hắn giống như một loài cầm thú, một con thú dữ đang tồn tại. Và nghệ thuật đối lập đã phản chiếu mạnh mẽ hai nhân vật này với những tính cách đối lập nhau, Giăng Van Giăng một người luôn biết yêu thương, và quan tâm đến người khác, đây là một con người có trái tim to lớn mạnh mẽ và tấm lòng nhân hậu vô cùng sâu sắc, giá trị của nó để lại cho cuộc đời này là những điều mang tầm ý nghĩa to lớn và giá trị nhất. Cuộc sống của ông được miêu tả để cứu giúp và yêu thương mọi người xung quanh, ông biết yêu thương mọi người từ những hình ảnh nhỏ bé nhất, trong đoạn đầu khi ông là một người cầm quyền trong tay ông vẫn luôn luôn biết yêu thương và giúp đỡ mọi người.
Khi diễn biến tâm trạng nhân vật đang lên điểm cao trào, nó làm cho người đọc cảm thấy hứng thú với những tâm lý tiếp theo, nhân vật này đang bị cuốn theo những vòng xoáy của cuộc sống. Đoạn tiếp theo của bài đã miêu tả giai đoạn ông lâm vào tình trạng khốn khổ nhất của cuộc sống, nhưng không vì thế mà ông mất đi giá trị cao đẹp của mình, hàng loạt những chi tiết miêu tả điều này, ông luôn biết bảo vệ những người khốn khổ, những người có số phận bất hạnh.
Trong hoàn cảnh sống khốn khổ, nhưng tình thương của Giăng Van Giăng vẫn được hiện lên rất sinh động, trong không gian tối tăm của những con người rơi vào tình trạng khổ đau đó là hàng loạt những con người luôn biết yêu thương và làm nên những kì tích giúp đỡ mọi người xung quanh, trong trái tim của ông Giăng Van Giăng nó đã phản chiếu mạnh mẽ được nhịp sống trong tâm hồn của mỗi con người, nó đã phản ánh phần nào những điều có giá trị mạnh mẽ và hào nhoáng nhất trong cuộc đời của nhân vật.
Trong một cuộc sống luôn có những bất công và cả những điều bất hạnh nhất, nó phản ánh mạnh mẽ được tấm gương của đời sống tinh thần, trong cái xấu xa tuyệt vọng, những sự phản chiếu mạnh mẽ của tâm hồn con người đủ để mọi người thấu hiểu và cảm thông cho những nhân vật bất hạnh. Sự đối lập giữa các nhân vật làm cho chúng ta hiểu được một điều đó là trong cuộc sống dù có bất công và hàm chứa những điều xấu xa nhưng nó vẫn tồn tại trong đó là những con người luôn luôn biết yêu thương và làm nên những kì tích giúp đỡ mọi người, những con người đó để lại bao nhiêu tình thương sự tôn trọng của mọi người đối với chính mình.
Trong câu chuyện hiện lên những chi tiết mang đậm giá trị tương phản của câu chuyện với những diễn biến sâu sắc và mang đậm ý nghĩa nhất. Trong những hình ảnh được phản ánh trong bài thì nhân vật Gia Ve đã hiện lên với bản chất của một con thú dữ. Trước cái chết của Phăng Tin thì hắn còn tỏ ra mình là một người vô tội, và quay sang quát mắng Giăng Van Giăng là giết chết Phăng Tin nhưng thực chất bên trong chính hắn mới là thủ phạm, thật đáng khinh bỉ và phê phán kiểu nhân vật này.
Nhưng trước những lời đó của Gia Ve, thì Giăng Van Giăng vẫn không hề sợ hãi mà còn lý giải điều đó một cách rất mãnh liệt, có thể thấy rằng, đây là một nhân vật lý tưởng mà tác giả xây dựng để phản chiếu mạnh mẽ được những nhân vật mang đậm giá trị cốt lõi của toàn bộ tác phẩm, những dấu ấn mạnh mẽ đã phản chiếu rất nhiều những hình tượng mang đậm giá trị sâu sắc của mỗi thời đại khi con người đang phải sống giữa cái ác và cái xấu, nó để cho tâm hồn chúng ta thấu hiểu và vượt qua những nỗi sợ hãi của cuộc sống nhiều nhất.
Cuối chuyện cái chết của Phăng Tin là một sự thật đau thương và nó cũng dùng để tố cáo những con người độc ác không có nhân tính, con người khốn khổ đang phải chịu những nghiệt ngã và đau đớn nhất, nhưng chi tiết làm cho mỗi chúng ta cảm thấy được an ủi phần nào về nhân vật này, khi sắp chết trước lời nói của Giăng Van Giăng trên đôi môi nhợt nhạt của Phăng Tin vẫn nở lên những nụ cười, đây có lẽ là nụ cười hạnh phúc của sự sống, khi trong lúc tuyệt vọng và cuối cùng của cuộc đời niềm hạnh phúc nhỏ nhoi nhất vẫn đang được hé lộ, nó phản chiếu được tấm gương sáng về tinh thần của những con người khốn khổ.
VI. Nghị luận về Chữ người tử tù
Nghị luận Chữ người tử tù (mẫu 1)
Nguyễn Tuân được đánh giá là “nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp”, ông có vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với nền văn học Việt Nam. Trước cách mạng ông thoát li hiện thực, tìm về một thời vang bóng, tập Vang bóng một thời chính là tập truyện tiêu biểu nhất cho phong cách của ông trước cách mạng. Trong đó ta không thể không nhắc đến Chữ người tử tù với niềm trân trọng thú viết chữ tao nhã truyền thống.
Chữ người tử tù được in trong tập Vang bóng một thời xuất bản năm 1940, tác phẩm khi xuất hiện trên tạp chí Tao đàn có tên Dòng chữ cuối cùng, sau in thành sách đổi thành Chữ người tử tù. Tác phẩm đã truyền tải đầy đủ tinh thần của tác giả, cũng như giá trị nhân văn của tác phẩm. “Chữ” là hiện thân của cái đẹp, cái tài sáng tạo ra cái đẹp, cần được tôn vinh, ngợi ca. “Người tử tù” là đại diện của cái xấu, cái ác, cần phải loại bỏ khỏi xã hội. Ngay từ nhan đề đã chứa đựng những mâu thuẫn gợi ra tình huống truyện éo le, gợi dậy sự tò mò của người đọc. Qua đó làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm: tôn vinh cái đẹp, cái tài, khẳng định sự bất tử của cái đẹp trong cuộc đời.
Tác phẩm có tình huống gặp gỡ hết sức độc đáo, lạ, chúng diễn ra trong hoàn cảnh nhà tù, vào những ngày cuối cùng của người tử tù Huấn Cao, một người mang chí lớn và tài năng lớn nhưng không gặp thời. Vị thế xã hội của hai nhân vật cũng có nhiều đối nghịch. Huấn Cao kẻ tử từ, muốn lật đổ trật tự xã hội đương thời. Còn quản ngục là người đứng đầu trại giam tỉnh Sơn, đại diện cho luật lệ, trật tự xã hội đương thời. Nhưng ở bình diện nghệ thuật, vị thế của họ lại đảo ngược nhau hoàn toàn : Huấn Cao là người có tài viết thư pháp, người sáng tạo ra cái đẹp, còn quản ngục là người yêu và trân trọng cái đẹp và người sáng tạo ra cái đẹp. Đó là mối quan hệ gắn bó khăng khít chặt chẽ với nhau. Với tình huống truyện đầy độc đáo, đã giúp câu chuyện phát triển logic, hợp lí đẩy lên đến cao trào. Qua đó giúp bộc lộ tính cách nhân vật và làm nổi bật chủ đề của truyện: Sự bất tử của cái đẹp, sự chiến thắng của cái đẹp. Sức mạnh cảm hóa của cái đẹp.
Nổi bật trong tác phẩm chính là Huấn Cao, người có tài viết chữ đẹp và nổi tiếng khắp nơi: “người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp” tiếng tăm của ai khiến ai ai cũng biết đến. Cái tài của ông còn gắn liền với khát khao, sự nể trọng của người đời. Có được chữ của Huấn Cao là niềm mong mỏi của bất cứ ai, được treo chữ của ông trong nhà là niềm vui, niềm vinh dự lớn. Cái tài của Huấn Cao không chỉ dừng lại ở mức độ bình thường mà đã đạt đến độ phi thường, siêu phàm.
Không chỉ tài năng, vẻ đẹp của Huấn Cao còn là vẻ đẹp của thiên lương trong sáng: “Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. “Khoảnh” ở đây có thể hiểu là sự kiêu ngạo về tài năng viết chữ, bởi ông ý thức được giá trị của tài năng, luôn tôn trọng từng con chữ mình viết ra. Mỗi chữ ông viết như một món quà mà thượng đế trao cho bản thân nên chỉ có thể dùng những chữ ấy để trao cho những tấm lòng trong thiên hạ. Trong đời ông, ông không vì uy quyền mà trao chữ cho ai bao giờ: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Đặc biệt, tấm lòng thiên lương ấy còn thể hiện trong việc ông đồng ý cho chữ viên quản ngục: “Ta cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”, tấm lòng của Huấn Cao với những con người quý trọng cái đẹp, cái tài.
ở Huấn Cao ta còn thấy được trong ông vẻ đẹp của một con người có nghĩa khí, khí phách hơn người. Ông là người giỏi chữ nghĩa nhưng không đi theo lối mòn, dám cầm đầu một cuộc đại phản, đối đầu với triều đình. Khi bị bắt ông vẫn giữ tư thế hiên ngang, trước lời đe dọa của tên lính áp giải tù, Huấn Cao không hề để tâm, coi thường, vẫn lạnh lùng chúc mũi gông đánh thình một cái xuống nền đá tảng… Khi viên quản ngục xuống tận phòng giam hỏi han ân cần, chu đáo, Huấn Cao tỏ ra khinh bạc đến điều: “Ngươi hỏi ta muốn gì, ta chỉ muốn có một điều, là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Vào thời điểm nhận tin dữ (ngày mai vào kính chịu án chém), Huấn Cao bình tĩnh, mỉm cười.
Và đẹp đẽ nhất là cảnh cho chữ, cả ba vẻ đẹp của ông được hội tụ và tỏa sáng. Trên tấm vải trắng còn nguyên vẹn lần hồ, chữ Huấn Cao “vuông tươi tắn” nói lên hoài bão, tung hoành của một con người có khí phách. Ông không để tâm đến mọi điều xung quanh chỉ tập trung vào việc tạo ra những nét chữ tuyệt tác. Với việc quản ngục xin chữ, Huấn Cao cũng hiểu ta tấm lòng của quản ngục, trong những giây phút cuối đời đã viết chữ dành tặng viên quản ngục, dành tặng cho tấm lòng biệt nhỡn liên tài trong thiên hạ.
Viên quản ngục là người có số phận bi kịch. Ông vốn có tính cách dịu dàng, biết trọng những người ngay thẳng, nhưng lại phải sống trong tù – môi trường chỉ có tàn nhẫn, lừa lọc. Nhân cách cao đẹp của ông đối lập với hoàn cảnh sống tù đầy, bị giam hãm. Ông tự nhận thức về ki kịch của mình, bi kịch của sự lầm đường lạc lối, nhầm nghề. Nhưng dù vậy, trong quản ngục vẫn giữ được tâm hồn cao đẹp, tâm hồn của một người nghệ sĩ. Ông khao khát có được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà, và nếu không xin được chữ ông Huấn quả là điều đáng tiếc. Nhưng xin được chữ của Huấn Cao là điều vô cùng khó khăn: bản thân ông là quản ngục, nếu có thái độ biệt nhỡn, hay xin chữ kẻ tử tù – Huấn Cao, chắc chắn sẽ gặp tai vạ. Hơn nữa Huấn Cao vốn “khoảnh” không phải ai cũng cho chữ. Trong những ngày cuối cùng của ông Huấn, quản ngục có hành động bất thường, biệt nhỡn với người tử tù. Cũng như Huấn Cao, vẻ đẹp tâm hồn của quản ngục được thể hiện rõ nhất ở đoạn cho chữ. Ông trân trọng, ngưỡng mộ nên đã bất chấp tất cả để tổ chức một đêm xin chữ chưa từng có. Ba con người, ba nhân cách cao đẹp chụm lại lại chứng kiến những nét chữ dần dần hiện ra…, viên quản ngục khúm núm cất từng đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ, với thái độ sung kính, ngưỡng mộ cái đẹp. Trước những lời giảng giải của Huấn Cao, viên quản ngục chắp tay vái người tù một vái, “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.
Tác phẩm đã sáng tạo tình huống truyện vô cùng độc đáo. Với nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, mỗi nhân vật mang một vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp thiên lương, khí phách và trọng đãi người tài. Đồng thời tác phẩm cũng thành công khi Nguyễn Tuân đã gợi lên không khí cổ xưa nay chỉ còn vang bóng. Nhịp điệu câu văn chậm, thong thả, góp phần phục chế lại không khí cổ xưa của tác phẩm. Bút pháp đối lập tương phản vận dụng thành thục, tài hoa.
Qua truyện ngắn Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm tin vào sự chiến thắng tất yếu của cái đẹp, cái thiên lương với cái xấu xa, tàn nhẫn. Đồng thời ông cũng thể hiện tấm lòng trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống, qua đó kín đáo bộc lộ lòng yêu nước. Với nghệ thuật xây dựng tình huống đặc sắc, ngôn ngữ tài hoa đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.
Nghị luận Chữ người tử tù (mẫu 2)
Nguyễn Tuân là một con người rất mực tài hoa, là bậc thầy về truyện ngắn. Sáng tác của ông được chia làm hai giai đoạn trước và sau cách mạng tháng Tám. Ở giai đoạn trước ông được coi là nhà văn “duy mĩ” say mê cái đẹp và coi cái đẹp là đỉnh cao của nhân cách con người. “Vang bóng một thời” là tập truyện tiêu biểu cho sáng tác thời kì này của Nguyễn Tuân, không tin tưởng ở hiện tại và tương lai ông đi tìm vẻ đẹp quá khứ của một thời vang bóng xa xưa với những phong tục, thú vui tao nhã lành mạnh trong đó có thú chơi chữ của Huấn Cao và viên quản ngục trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”. Hai con người có nhân cách cao đẹp, thiên lương trong sáng và cảnh cho chữ lạ lùng được hiện lên trong tác phẩm làm nổi bật cho tài năng văn chương và tư tưởng của Nguyễn Tuân.
Huấn Cao trong câu chuyện là một người có tài viết chữ đẹp nhưng vì chống lại triều đình mà bị lãnh án tử hình. Trước khi xử án ông được đưa đến một trại giam có viên quản ngục và thầy thơ lại yêu quý nét chữ, trân trọng người tài Huấn Cao nên đã biệt đãi tù nhân, mong muốn ông Huấn cho chữ. Hiểu được tấm lòng ấy người tử tù có thiên lương trong sáng đã cho chữ trong hoàn cảnh éo le trước giờ chưa từng có. Tình huống truyện là cuộc gặp gỡ giữa hai con người khác biệt một bên là Huấn Cao có tài viết chữ nhưng lại đối đầu với triều đình, một bên là viên quan coi ngục đại diện cho người gìn giữ trật tự xã hội phong kiến đương thời nhưng lại khao khát ánh sáng chữ nghĩa. Hai con người đối lập trên bình diện xã hội nhưng lại là tri âm, tri kỉ với nhau trên bình diện nghệ thuật. Nhân vật đã được Nguyễn Tuân đặt vào trong tình huống đối nghịch tạo ra kịch tính cho câu chuyện và cảnh cho chữ là nút thắt được tháo gỡ.
Huấn Cao là một con người tài hoa uyên bác, khí phách hiên ngang, anh hùng bất khuất và có một thiên lương trong sáng được hiện lên trong tác phẩm. Trước tiên là gián tiếp ở phần đầu qua cuộc đối thoại của viên quản ngục với thầy thơ lại. Tài năng viết chữ đẹp của ông được người ở vùng tỉnh Sơn ca tụng khiến cho viên quan coi ngục đau đáu một lòng với sở nguyện xin được chữ ông Huấn về treo ở nhà riêng của mình bởi “chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”. Nguyễn Tuân đã miêu tả sở nguyện của viên quan coi ngục để làm nổi bật lên chất tài hoa nghệ sĩ mà bao nhiêu người trong thiên hạ hằng khao khát có được. Không chỉ vậy người tử tù rất anh hùng là tên cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình vì bất mãn với chính sách cai trị triều chính, là kẻ không sợ lời đe dọa của bọn lính áp giải mà tự do, hiên ngang dỗ gông để trận mưa rệp rơi xuống đất, thản nhiên nhận rượu thịt ung dung làm một người tù tự do trong nhà lao. Có mấy ai trước khi chết mà vẫn giữ được bản lĩnh và phong thái như vậy? Ông làm ra vẻ khinh bạc viên quan coi ngục với câu nói: “Ngươi hỏi ta muốn gì ư? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây” xưa nay ta chỉ thấy quan coi ngục đánh mắng người tù chứ hiếm khi thấy điều ngược lại. Con người ấy hiện lên qua suy nghĩ của quan lại coi ông là một tên tội phạm nguy hiểm, là kẻ chọc trời khuấy nước khi nhận được án chém vẫn bình tĩnh, tự tin đón nhận cái chết. Huấn Cao không bao giờ khuất phục trước uy quyền, cường quyền và bạo lực. Ông là một nhân vật hiếm có xưa nay bởi sự hòa quyện của chất nghệ sĩ với chất anh hùng tạo nên nét riêng biệt, độc đáo khác với các nhân vật trong “Vang bóng một thời”. Con người ấy còn có một thiên lương trong sáng không phải ai trên đời ông cũng cho chữ, cuộc đời ông Huấn chỉ mới cho ba lần là ba người bạn tri kỉ. Nhưng khi hiểu được tấm lòng của quan coi ngục ông mỉm cười nhắc thầy thơ lại chuẩn bị chu đáo để ông có cơ hội được đáp lại sự chân tình ấy. Giọng Huấn Cao đã trở nên từ tốn, hòa dịu hơn rất nhiều: “Về bảo với chủ ngươi, tối nay, lúc nào lính canh về trại nghỉ, thì đem, mực, bút và cả bó đuốc xuống đây ta cho chữ”. Cho chữ chứ không phải là viết chữ, nghe như là lời của bề trên ban xuống cho người dưới. Ông khẳng định “Chữ thì quý thực. Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ.” Huấn Cao không màng vinh hoa phú quý cũng không sợ cường quyền mà ép mình làm điều không thích. Dù ở trong chốn ngục tù bị giam cầm về thân xác nhưng tâm hồn ông không bao giờ bị giam giữ, ông vẫn luôn tự do về nhân cách.
Ông Huấn quyết định cho chữ trong hoàn cảnh “xưa nay chưa từng có” theo như Nguyễn Tuân nhận xét. Cảnh cho chữ thật xác đáng là một nghệ thuật đặc sắc được nhà văn miêu tả thật đáng khâm phục tài năng. Thời gian là đêm cuối của một người tù trước khi ra pháp trường. Quang cảnh cho chữ vừa lạ vừa đẹp vừa như một ảo ảnh. Lạ vì xưa nay người ta cho chữ trong căn phòng sạch sẽ, lung linh ánh nến ánh đèn, có mùi thơm của hương trầm nhưng ở đây tại nhà lao chẳng có gì ngoài “Buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián” chỉ có ánh đuốc tẩm dầu sáng đỏ rực, khói tỏa như đám cháy nhà. Phòng giam ba người nhưng chỉ một người hoạt động. Thầy thơ lại run run bưng chậu mực. Viên quản ngục hai tay nâng tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Huấn Cao “cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa”, từng nét chữ thoăn thoắt được viết ra, “người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng”. Ta thấy tư thế đối nghịch nhau giữa một người tù bị giam cầm và hai người tự do đại diện cho cường quyền bấy giờ. Huấn Cao thì ung dung, tự tại và đối lập với tư thế ấy là sự “khúm núm” của viên quan coi ngục và “run run” của thầy thơ lại. Cái “khúm núm” của quan coi ngục không phải là cái cúi đầu hèn hạ mà trái lại rất đáng trân trọng. Ông cúi đầu thành kính trước cái đẹp đó là một điều nên làm ở trong đời. Vị thế và tâm thế bị đảo ngược hoàn toàn. Người có quyền lại không có uy, người tử tù lại giữ trong tay quyền sát quyền sinh, người đáng lẽ phải giáo dục, giáo hóa tội phạm thì nay lại được tội phạm giáo dục lại nhân cách, thiên lương khi được ông Huấn cho lời khuyên nên thay chốn ở đi, “Thầy quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ.Ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi” đó là lời khuyên chân thành để giữ được nhân cách cao đẹp. Trước tấm lòng chân tình ấy viên quản ngục lùi ra mà nói gần như muốn khóc và cảm động: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Cả ba con người cùng đồng điệu, cùng chung một tấm lòng yêu tha thiết cái đẹp, cái đẹp chữ viết đi liền với cái đẹp tâm hồn và nhân cách thiên lương trong sáng.
Như vậy qua tác phẩm “Chữ người tử tù” Nguyễn Tuân đã cho ta thấy ba thái độ của con người đối với cái đẹp. Trước tiên đó là thái độ hủy diệt. Điều đó được biểu hiện qua mấy tên lính mà nhà văn miêu tả sơ lược ở đoạn đầu với thái độ hách dịch, vô lễ với Huấn cao và bạn tù của ông. Chúng là hạng thiên lôi tàn bạo chỉ đâu đánh đó, ở trong chốn ngục tù lâu ngày bị nhiễm thói đầu trâu mặt ngựa. Ngoài ra qua mệnh lệnh của quan trên tai to mặt lớn ở Hưng Sơn Tuyên đốc bộ đường đại diện cho chính quyền phong kiến bảo thủ, trì trệ cố hủy diệt tài năng của người tài để gìn giữ ngôi báu tàn bạo, độc ác của mình.
Thái độ thứ hai là yêu mến cái đẹp và quý trọng người tài. Thể hiện qua tấm lòng, hành động của viên quản ngục và thầy thơ lại. Họ cảm mến Huấn Cao qua lời đồn, luôn muốn biết những người tài và bất chấp cả nguy hiểm đến tính mạng để có thể hoàn thành sở nguyện cao đẹp là xin chữ ông Huấn. Họ tiếc cho một nhân tài như ông lại bị đao chém pháp trường hủy diệt. Cái đẹp thì ai cũng quý nhưng biết đẹp mà quý cũng đáng trân trọng biết bao bởi nó làm cho con người đẹp lên, phẩm chất cao hơn và thơm ngát hơn cho tấm lòng thiên lương trong sáng, thanh sạch.
Thái độ thứ ba là sự cao thượng và rộng lượng của bậc chính nhân quân tử, nghệ sĩ tài ba của Huấn Cao. Điều đó được biểu hiện qua nhân cách và hành động của ông được tác giả khắc họa. Huấn Cao là con người đặc biệt có một không hai trong trang viết của Nguyễn Tuân để lại cho tác giả sự trân trọng và nỗi niềm xót xa, tiếc nuối cho một con người tài giỏi, có nghĩa khí và nhân cách cao đẹp lại gặp không đúng thời, đúng vận mệnh. Huấn Cao ngày nay cũng rất nhiều nhưng không ít người đang dần bị vùi chôn bởi thế lực quyền uy và sức mạnh của đồng tiền. Theo như thông tin của Bộ giáo dục ngày 17/7/2018 ở Hà Giang sau khi thanh tra rà soát lại công tác chấm thi có 114 thí sinh bị hạ điểm vì điểm thi công bố bị gian lận, nâng lên quá nhiều so với năng lực thực tế của các em. Nạn chảy máu chất xám, mua điểm, mua quan bán chức… đã khiến biết bao người tài có trí tuệ tài năng thực sự bị vùi dập một cách tàn bạo. Đó là nỗi đau lớn của ngành giáo dục của cả đất nước con người Việt Nam. Hiền tài như Huấn Cao nhưng lại bị cướp trắng trợn cơ hội để cống hiến cho đất Việt.
Qua tác phẩm tác giả thể hiện được tư tưởng của mình về nghệ thuật và nhân phẩm con người. Nhân cách đẹp là sự kết hợp giữa cái tài và cái tâm và cái đẹp luôn phải gắn liền với cái thiện không thể tách rời, bản thân cái đẹp chính là đạo đức. Cái đẹp không chỉ được sáng tạo ra ở nơi thanh tao, sạch sẽ mà ngay ở trong môi trường của cái xấu và cái ác nó cũng luôn tồn tại nhưng không vì thế mà lụi tàn trái lại càng nó càng tỏa sáng rực rỡ và mạnh mẽ hơn. Chỉ có cái đẹp mới có thể cảm hóa được tâm hồn con người làm cho chúng trở nên tốt hơn, cao đẹp hơn ở trên đời.
Nguyễn Tuân với tài năng nghệ thuật tương phản với bút pháp tả thực và lãng mạn đan xen, sự sắc sảo điêu luyện của ngòi bút đã khắc họa con người và cảnh vật chi tiết, tỉ mỉ gây ấn tượng sâu sắc. Nguyễn Tuân phải là một con người yêu mến và trân trọng tài năng, cái đẹp vô cùng mới có thể viết được truyện ngắn “Chữ người tử tù” với sự hiện thân của hai con người có nhân cách cao đẹp như Huấn Cao và viên quản ngục hay đến thế.
Nghị luận Chữ người tử tù (mẫu 3)
Nhà thơ lừng danh người Mỹ Ralph Emerson từng có câu nói rất hay rằng: “Yêu cái đẹp là thường thức. Tạo ra cái đẹp là nghệ thuật. Nhưng biết trân trọng cái đẹp mới là người nghệ sĩ chân chính.” Có lẽ từ lâu nhà văn Nguyễn Tuân đã sớm thấm nhuần tư tưởng trên mà cả cuộc đời ông là một chặng đường say mê đi tìm cái đẹp thanh cao, cái đẹp của chuẩn mực tạo hoá. Tác phẩm Chữ người tử tù của ông đã khắc hoạ rất thành công chân dung vẻ toàn mỹ, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào thì nó vẫn luôn toả sáng và trường tồn với thời gian.
Nguyễn Tuân (1910 – 1987) xuất thân trong một gia đình Nho giáo, quê ông ở làng Mọc nay là phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Nguyễn Tuân là nhà văn lớn có đóng góp vô cùng quan trọng cho nền văn học Việt Nam hiện đại, cả đời ông say mê đi tìm cái đẹp trong cuộc sống để từ đó thổi hồn vào trong các tác phẩm của mình những làn gió mới, những vẻ đẹp nhân văn cao đẹp. Các tác phẩm chính của ông gồm có : Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1940), Sông Đà (1960),… Truyện ngắn Chữ người tử tù lúc đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng in năm 1939 tên tạp chí Tao Đàn, sau đó được in trong tập truyện Vang bóng một thời và đổi tên thành Chữ người tử tù. Hình tượng Huấn Cao – một con người tài hoa, lỗi lạc với ý chí hiên ngang, bất khuất, cho dù là chí lớn không thành nhưng ông cũng không bao giờ gục ngã, vẫn giữ cho mình tâm hồn thanh cao trước cảnh ngục tù tối tăm, u uất.
Thành công của một tác phẩm truyện ngắn là đến từ tình huống truyện đặc sắc, đó chính là chiếc chìa khóa thúc đẩy cốt truyện dâng lên cao trào như cách mà Nguyễn Minh Châu từng nói đó là: “Tình thế của câu chuyện, là khoảnh khắc mà trong đó sự sống hiện ra rất đậm đặc”. Chữ người tử tù cũng là một câu chuyện như thế, Nguyễn Tuân đã đặt nhân vật của mình vào nghịch cảnh trớ trêu, cuộc hội ngộ giữa hai thế lực đối lập. Một bên đại diện cho con người tài hoa khí phách, một bên là quyền lực tăm tối của xã hội phong kiến. Cuộc gặp gỡ diễn ra đầy kịch tính, lôi cuốn người đọc, cuối cùng vẻ đẹp thiên lương tao nhã đã thắng thế trước sự xã hội tàn bạo, xấu xa.
Chữ người tử tù xây dựng thành công tuyến nhân vật chính diện, họ là trung tâm đại diện cho cái đẹp thanh cao trong tâm hồn, dù ở trong hoàn cảnh nào, dù thực tại xã hội có dở bẩn ra sao cũng không thể nào làm vướng bẩn nhân cách thiên lương của họ. Trước tiên là hình tượng Huấn Cao – một vị anh hùng sa cơ, thất thế ông là người lãnh đạo nhân dân đứng lên đấu tranh đòi lại công bằng cho chính mình. Ấy thế mà trong con mắt của chế độ phong kiến ông lại bị gọi là kẻ “phản nghịch”, kẻ cầm đầu nguy hiểm cần phải tiêu diệt. Có ý kiến cho rằng Nguyễn Tuân sáng tạo hình tượng Huấn Cao dựa trên nguyên mẫu Cao Bá Quát – một người tài hoa, nghệ sĩ, tinh thần quả cảm và đặc biệt là có tài viết chữ đạt đến độ tuyệt mỹ. Huấn Cao là cách gọi kính trọng, là một người mang họ Cao giữ chức huấn đạo – chức quan trông coi việc học ở một huyện.
Nguyễn Tuân khắc hoạ vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao qua nhiều bình diện để thấy được cái vẻ đẹp thanh cao đạt đến chân – thiện – mỹ của một người tài hoa bậc nhất. Trước tiên, nhà văn miêu tả Huấn Cao là một người nghệ sĩ tài hoa, lừng danh khắp chốn. Ông xuất hiện gián tiếp trong câu chuyện của viên quản ngục và thầy thơ lại, là người mà “vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”, không những thế ông còn có tài “bẻ khoá và vượt ngục”. Huấn Cao hiện lên trong tác phẩm quả là một người “văn võ song toàn”, hội tụ tất cả những khí chất của một người anh hùng tài ba. Tác giả giới thiệu Huấn Cao với lối miêu tả gián tiếp là hoàn toàn có dụng ý khéo léo, chu toàn ông muốn để cho nhân vật của mình xuất hiện một cách tự nhiên mà không đường đột, từ đó cho người đọc thấy được hình tượng nhân vật phi thường tiếng thơm đã truyền đi khắp nhân gian, khi nhắc đến tên tuổi cả viên quản ngục hay thầy thơ lại đều đã từng nghe qua. Cái tài hoa, nghệ sĩ của ông Huấn cao còn được bộc lộ rõ nét nhất khi viên quản ngục bất chấp hiểm nguy, chỉ với hy vọng có được chữ của ông, chữ ông “đẹp lắm, vuông lắm” chỉ cần có một đôi câu đối của Huấn Cao treo trong nhà coi như là “y đã mãn nguyện” bội phần, dường như trên đời sẽ chẳng có gì có thể làm cho viên quản ngục hạnh phúc hơn thế nữa.
Huấn Cao còn là vị anh hùng với khí phách hiên ngang ngút trời, dù lâm vào cảnh tù đày đối diện với án tử nhưng ông chẳng một chút sợ hãi vẫn giữ cho mình nhân cách thanh cao, không nhún nhường trước cường quyền táo bạo. Trước lời giễu cợt của bọn lính cai ngục, Huấn Cao im lặng “lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng” một hành động dứt khoát như là lời cảnh báo chắc nịch của người tử tù với bọn nha sai hách dịch, cậy quyền. Trong ngục tù tăm tối ông thản nhiên, ung dung “nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình”, thật là hiếm có người tù nào sắp chết mà vẫn giữ thái độ điềm nhiên, bình thản được như Huấn Cao. Chẳng sợ cường quyền, khinh bạc chế độ xã hội tàn bạo dù biết trước sẽ phải đối đầu với một trận “lôi đình báo thù và những thủ đoạn tàn bạo” thế nhưng người anh hùng cũng chẳng thể dối lòng “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là ngươi đừng đặt chân vào đây” Câu nói thẳng thừng như gáo nước lạnh tạt thẳng vào bộ mặt phong kiến.
Nguyễn Tuân còn miêu tả người anh hùng kiên cường mang tấm lòng thiên lương cao cả. Huấn Cao từ thuở sinh thời không bao giờ ham phù hoa, danh lợi mà bán chữ. Đời ông cũng chỉ viết có “hai bộ tứ bình và một bức trung đường” cho những người bạn tri kỷ. Ông quan niệm cái đẹp thanh cao phải được trao cho đúng người mới phát huy được hết giá trị của nó. Huấn Cao đã bị cảm động trước sự đối đãi chân tình “biệt nhỡn liên tài” của chủ tớ Viên quản ngục. Tấm lòng nhân hậu không muốn phụ “một tấm lòng trong thiên hạ”.
Ngoài nhân vật trung tâm Huấn Cao, Nguyễn Tuân còn xây dựng thêm một tuyến nhân vật viên quản ngục, một người yêu thích cái đẹp, tâm hồn tài hoa nghệ sĩ nhưng lại bị lạc vào chốn nhơ bẩn, dung tục. Nhà văn xây dựng đồng thời hai nhân vật chính diện song song soi chiếu cho nhau tỏa sáng với vẻ đẹp tâm hồn tao nhã. Viên quản ngục dường như chọn nhầm nghề, ông là “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”. Như cách mà tác giả nói “Ông trời nhiều khi chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã”. Thật đáng trân trọng sống giữa một xã hội rối ren, loạn lạc mà vẫn giữ cho tâm hồn mình không vị vùi lấp trong bùn lầy, ông còn còn biết trân trọng cái đẹp, biết nể trọng người tài, là người dũng cảm bất chấp hiểm nguy.
Vào một đêm hoang vắng, tại trại giam tỉnh Sơn đã xảy ra “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Trong buồng giam tăm tối, chật hẹp, mùi ẩm mốc bốc lên, xung quanh là đầy nhưng mạng nhện giăng, mùi hôi thối của phân chuột, phân gián. Trong không khí khói tỏa, ngọn lửa đỏ rực của ngọn đuốc đang cháy hừng hực. “Một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh”, viên quản ngục “khúm núm”, thầy thơ lại “run run bưng chậu mực”, vị thế nhân vật dường như đổi dời người nắm quyền thế bỗng dưng khép nép, kính cẩn trước một tử tù. Cái đẹp không lẻ loi đơn độc, nó không tồn tại cùng cái xấu xa mà chiến thắng chúng, nhân đạo hoá những tâm hồn đang vướng bụi trần giúp họ thức tỉnh, tìm lại con người nhân nghĩa vốn có của mình.
Chữ người tử tù của tác giả Nguyễn Tuân là một thiên truyện đã đạt “gần tới sự toàn diện, toàn mỹ”. Tác phẩm thể hiện phong cách nghệ thuật tài tình của nhà văn, tạo dựng thành công tình huống truyện độc đáo, khắc họa tính cách nhân vật qua thủ pháp đối lập, tương phản gay gắt, ngôn ngữ trang trọng giàu hình ảnh sinh động. Qua truyện, tác giả đã khẳng định sự tồn tại vĩnh cửu của cái đẹp, thể hiện lòng yêu nước thầm kín của Nguyễn Tuân.
Nghị luận Chữ người tử tù (mẫu 4)
Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám là một nhà văn duy mĩ. Ông yêu đến say đắm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, tôn thờ cái đẹp. Theo ông mĩ là đỉnh cao của nhân cách con người. Ông săn lùng cái đẹp không tiếc công sức. Ông miêu tả cái đẹp bằng kho ngôn ngữ giàu có của riêng ông. Những nhân vật hiện lên trong tác phẩm của Nguyễn tuân phải là hiện thân của cái đẹp.
Đó là những con người tài hoa hoạt động trong những hoàn cảnh, môi trường đặc biệt, phi thường. Ông phát hiện, miêu tả cái đẹp bên ngoài và bên trong của nhân vật. Trong cái đẹp của ông bao gồm cái chân và thiện. Ông lại còn kết hợp mĩ với dũng. Truyện ngắn “Chữ người tử tù” (1939) trong tập “Vang bóng một thời” là áng văn hay nhất, tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân. Giá trị tư tưởng và dụng công nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện chủ yếu trong đoạn văn tả “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”, cảnh tượng một người tử tù cho chữ một viên cai ngục.
Ông Huấn Cao trong truyện “Chữ người tử tù” là một nho sĩ tài hoa của một thời đã qua nay chỉ còn “vang bóng”. Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu nhà thơ, nhà giáo, một lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân là Cao Bá Quát, một con người hết sức tài hoa và dũng khí phi thường để sáng tạo ra nhân vật Huấn Cao (Cao là họ, Huấn là dạy). Cao Bá Quát trước khi trở thành lãnh tụ nông dân cũng là thầy giáo. Nguyễn Tuân đã dựa vào hai tính cách của nguyên mẫu để xây dựng nhân vật Huấn Cao. Cao Bá Quát, người viết chữ đẹp nổi tiếng và khí phách lừng lẫy. Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân vừa thể hiện lý tưởng thẩm mĩ của ông lại vừa thỏa mãn tinh thần nổi loạn của ông đối với xã hội đen tối tàn bạo lúc bấy giờ.
Truyện có hai nhân vật chính, một là ông Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, một nửa là viên quản ngục say mê chữ đẹp của ông Huấn, quyết tìm mọi cách để “xin chữ” treo trong nhà. Lão coi chữ của Huấn Cao như báu vật.
Họ đã gặp nhau trong tình huống oái oăm là nhà ngục. Người có tài viết chữ đẹp lại là một tên “đại nghịch” cầm đầu khởi nghĩa nông dân (triều đình gọi là nổi loạn, giặc) đang bị bắt giam chờ ngày thụ hình. Còn người mê chữ đẹp của ông Huấn Cao lại là một quản ngục đại diện cho cái trật tự xã hội ấy. Trên bình diện nghệ thuật họ là tri âm tri kỉ, trên bình diện xã hội họ ở hai vị trí đối lập. Tình huống của truyện có tính kịch. Từ tình huống đầy kịch tính ấy, tính cách hai nhân vật được bộ lộ và tư tưởng chủ đề của truyện được thể hiện một cách sâu sắc.
Huấn Cao nói: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Huấn Cao coi thường tiền bạc và uy quyền, nhưng Huấn Cao vui lòng cho chữ viên quản ngục vì con người sống giữa chốn bùn nhơ này, nơi người ta chỉ biết sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc lại có kẻ biết trọng người có nghĩa khí, biết tôn quý cái đẹp của chữ nghĩa “ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy”. Viên quản ngục cũng không dễ gì nhận được chữ của Huấn Cao. Hắn đã bị nghi ngờ, bị đuổi. Có lần hắn mon men vào ngục định làm quen và biệt đãi Huấn Cao để xin chữ thì lại bị Huấn Cao cự tuyệt: “ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Về sau hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, ông đã nói một lời sâu sắc và cảm động: “thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”.
Coi khinh cường quyền và tiền bạc, Huấn Cao chỉ trọng những tấm lòng biết quý cái đẹp, cái tài, có sở thích cao quý. Những con người ấy theo Huấn Cao là còn giữ được “thiên lương”. Ông khuyên viên quản ngục bỏ cái nghề nhơ bẩn của mình đi “ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”.
Huấn Cao còn đẹp ở khí phách. Ông là một người tử tù gần đến ngày tử hình vẫn giữ được tư thế hiên ngang, đúng là khí phách của một anh hùng Cao Bá Quát. “Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Tác giả cố ý miêu tả bằng cách tương phản giữa tính cách cao quí của Huấn Cao với cái dơ dáy, bẩn thỉu của nhà tù, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội thời bấy giờ.
Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục. Chính trong tình tiết này, cái mĩ và cái dũng hòa hợp. Dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ trên phiến lụa óng”. Hình ảnh người tử tù trở nên lồng lộng. Viên quản ngục và viên thư lại trở nên nhỏ bé, bị động, khúm núm trước người tử tù.
Vì sao Nguyễn Tuân lại nói đây là một “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”?
Cảnh tượng này quả là lạ lùng, chưa từng có vì trò chơi chữ nghĩa thanh tao có phần đài các lại không diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bần thỉu, hôi hám.
Cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy là hình ảnh tên tử tù cho chữ thì nổi bật lên uy nghi lộng lẫy, còn viên quản ngục và thư lại, những kẻ đại diện cho xã hội đương thời thì lại khúm núm run rẩy.
Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó, không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Sáng mai ông sẽ bị tử hình, nhưng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung hoành cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ còn đó. Và nhất là lời khuyên của ông đối với tên quản ngục có thể coi là lời di huấn của ông về đạo lí làm người trong thời đại nhiễu nhương đó. Quan niệm của Nguyễn Tuân là cái Đẹp gắn liền với cái Thiện. Người say mê cái đẹp trước hết phải là người có thiên lương. Cái Đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn với cái Dũng. Hiện thân của cái Đẹp là hình tượng Huấn Cao với khí phách lừng lẫy đã sáng rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù.
Bên cạnh hình tượng Huấn Cao lồng lộng, ta còn thấy một tấm lòng trong thiên hạ. Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng cảm động. Đó là âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Cái tư thế khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh và cử chỉ run run bưng chậu mực không phải là sự quỵ lụy hèn hạ mà là thái độ chân thành khiến ta có cảm tình với con người đáng thương này.
Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân biến hóa, sáng tạo, có hồn, có nhịp điệu dư ba. Một không khí cổ kính trang nghiêm đầy xúc động, có phần bi tráng toát lên trong đoạn văn.
“Chữ người tử tù” không còn là “chữ” nữa, không chỉ là Mỹ mà thôi, mà “những nét chữ tươi tắn nó nói lên những hoài bão tung hoành của một đời người”. Đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối. Đấy là sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng, đối với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Sự hòa hợp giữa Mỹ và Dũng trong hình tượng Huấn Cao là đỉnh cao nhân cách theo lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, theo triết lí “duy mĩ” của Nguyễn Tuân.
Nghị luận Chữ người tử tù (mẫu 5)
Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một nghệ sĩ tài hoa. Mỗi lời văn của Nguyễn Tuân đều là những nét bút trác tuyệt như một nét chạm khắc tinh xảo trên mặt đá quý của ngôn ngữ (Tạ Tỵ). Một trong những nét bút trác tuyệt đó là tác phẩm Chữ người tử tù. Nối bật lên trong tác phẩm là hình tượng nhân vật Huấn Cao và cảnh cho chữ – một cảnh tượng xưa nay chưa từng có.
Huấn Cao là nhân vật khá điển hình cho bút pháp lãng mạn. Chúng ta đều biết văn học lãng mạn thường mô tả theo những mẫu hình lí tưởng. Có nghĩa là nhà văn thường thả trí tưởng tượng của mình để theo đuổi những vẻ đẹp hoàn hảo nhất. Bởi thế nhân vật viết theo lối lãng mạn có tầm vóc phi thường. Nó là biểu hiện cho những gì mà nhà văn mơ ước, khao khát. Huấn Cao là thế. Từ đầu đến cuối, ông hiện ra như một con người phi thường. Từ tài hoa đến thiên lương, từ thiên lương đến khí phách, nhất nhất đều có tầm vóc phi thường. Có thể nói Huấn Cao là một giấc mơ đầy tính nhân văn của ngòi bút Nguyễn Tuân.
Là nhân vật tài hoa nghệ sĩ, phẩm chất đầu tiên của Huấn Cao là tài hoa. Thiên truyện được mở đầu bằng cuộc đối thoại của hai nhân vật quản ngục và thơ lại. Ở đây tuy Huấn Cao hiện lên gián tiếp nhưng cũng đủ để cho ta thấy ông nổi tiếng với tài văn võ song toàn, uy danh đồn khắp cõi tỉnh Sơn. Cái tài được tô đậm nhất ở nhân vật này là tài viết chữ đẹp. Đó là nghệ thuật thư pháp – một bộ môn nghệ thuật truyền thống và cao siêu của dân tộc. Ở sự gửi gắm, kí thác toàn bộ những tâm nguyện sâu xa của mình. Bởi thế mỗi con chữ là một tác phẩm nghệ thuật sâu xa của mình. Bởi thế mỗi con chữ là một tác phẩm nghệ thuật, là sự kết tinh những vẻ đẹp tâm hồn của người viết. Mỗi con chữ là hiện thân của khí phách, của thiên lương và tài hoa. Chữ Huấn Cao thể hiện nhân cách Huấn Cao. Nó quý giá không chỉ vì được viết rất nhanh, rất đẹp, đẹp lắm, vuông lắm mà trước hết vì đó là những con chữ nói lên khát vọng tung hoành của một đời con người. Chính vì thế mà có được chữ của ông Huấn Cao đã trở thành tâm nguyện lớn nhất, thiêng liêng nhất của quản ngục. Để có được chữ Huấn Cao, quản ngục sẵn sàng đánh đổi tất cả, kể cả sự hi sinh về quyền lợi và sinh mệnh của mình. Nhưng Huấn Cao không chỉ là một đấng tài hoa, sâu xa hơn, ông còn có một tấm lòng – đó là tấm lòng biết quý trọng thiên lương của con người.
Một nhà văn nước ngoài đã nói về chân lí sâu xa. Hãy đập vào trái tim mình thiên tài là ở đó. Thì ra gốc của tài năng là ở trái tim, gốc của cái tài là cái tâm. Tấm lòng biết trọng thiên lương là gốc rễ của nhân cách Huấn Cao. Trong mắt Huấn Cao, quản ngục chỉ là một kẻ tầm thường không làm nghề thất đức. Bởi lí Huấn Cao đã thể hiện sự khinh bỉ không cần giấu giếm, đến khi nhận ra viên ngục là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản đàn mà nhạc luật điều hỗn loạn xô bồ thì Huấn Cao rất ân hận. Bằng tất cả sự xúc động, Huấn Cao đã nói: Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi… Thiếu chút nữa ta phụ một tấm lòng trong thiên hạ. Câu nói ấy đã hé mở cho chúng ta thấy phương châm của một nhân cách sống là phải xứng đáng với những tấm lòng.
Cảm hứng lãng mạn bao giờ cũng xui khiến các nghệ sĩ khắc họa những hình tượng sao cho hoàn hảo thậm chí đến mức phi thường. Ông Huấn Cao cũng thế. Nguyễn Tuân đã khiến cho hình tượng này trở thành một con người siêu phàm với việc tô đậm một khí phách siêu việt. Căm ghét xã hội thối nát, ông đã cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình, sự nghiệp không thành, ông lĩnh án tử hình. Nhưng tù đày, gông cùm và cái chết cùng không khuất lạc được ông. Ông luôn tìm thấy ở những nơi mà tự do bị tước bỏ. Đối với Huấn Cao, mọi sự trói buộc, tra khảo, giam cầm đều vô nghĩa. Và khi quản ngục hỏi ông muốn gì để giúp, ông đã trả lời bằng sự khinh bạc đến điều… lời nói của ông có thể là nguyên cớ để ông phải rước lấy những trận trả đũa. Nhưng một khi đã nói nghĩa là ông không hề run sợ, không hề quy phục trước cường quyền và bạo lực. Có thể Huấn Cao sừng sững trong suốt cả thiên truyện như một khí phách kiên cường bất khuất, uy vũ bất năng khuất.
Những phẩm chất tuyệt vời đó của Huấn Cao đã chói sáng lên trong cảnh tượng cuối cùng mà Nguyễn Tuân đã gọi là cảnh tượng xưa nay chưa từng có – cảnh cho chữ. Cảnh cho chữ là sự biểu hiện sống động rực rỡ của tài hoa, thiên lương và khí phách của Huấn Cao.
Muốn hiểu được giá trị sâu sắc của cảnh cho chữ cho chúng ta không thể không nói tới quá trình dẫn đến cảnh cho chữ ấy. Người tinh ý sẽ dễ nhận thấy rằng câu chuyện có hai phần rõ rệt: Phần đầu giới thiệu các nhân vật và dẫn dắt câu chuyện chuẩn bị cho phần sau. Phần sau khắc họa cảnh cho chữ. Nếu không có phần hai thì phần đầu chỉ là những mẩu vụn vặt, thiếu sức sống. Bởi thế phần hai tuy ngắn nhưng lại là kết tinh của toàn bộ câu chuyện. Và bút lực của Nguyễn Tuân càng dồn vào phần này đậm nhất. Toàn bộ câu chuyện xoay quanh một tình huống đặc biệt. Đó là cuộc gặp hết sức éo le của Huấn Cao và quản ngục – Nơi gặp gỡ là nhà tù, thời gian là những ngày cuối cùng trước khi ra pháp trường của Huấn Cao. Những điều này làm cho tình thế trở nên ngặt nghèo, bức xúc, khó xoay sở. Nhưng oái ăm hơn cả vẫn là thân phận của hai nhân vật, về bình diện xã hội, họ là những kẻ đối địch. Một người là kẻ phản loạn, dám nổi dậy chống lại thể chế đương thời, còn người kia lại là một viên quan đại diện cho chính thể ấy. Nhưng về bình diện nghệ thuật, họ lại là hai người tri âm: Một người có tài viết chữ đẹp còn người kia lại vô cùng ngưỡng mộ cái tài đó. Sự trái ngược này đã đặt quản ngục trước sự lựa chọn nghiệt ngã: hoặc là muốn làm tròn bổn phận của một viên quan thì phải chà đạp lên tấm lòng tri kỉ hoặc muốn trọn đạo tri kỉ phải phản bội lại chức phận của một viên quan. Quản ngục sẽ hành động như thế nào? Ông ta hành động như thế nào thì tư tưởng tác phẩm sẽ nghiêng về hướng đó.
Với một tương quan như vậy, quan hệ giữa họ ban đầu rất căng thẳng. Tâm nguyện lớn nhất của quản ngục là có được chữ của ông Huấn Cao nhưng đây là cơ hội cuối cùng. Còn Huấn Cao tuy có tài viết chữ nhưng lại chỉ cho chữ những ai ông cho là tri kỉ. Vậy muốn có chữ của Huấn Cao thì quản ngục phải được ông thừa nhận là tri kỉ trong vòng mấy ngày tới. Điều đó lại dường như không thể đạt được. Trong mắt Huấn Cao, quản ngục chỉ là kẻ tiểu nhân, giữa họ là một vực sâu ngăn cách. Thực ra quản ngục cũng có những ưu thế để đối xử với những người tù thông thường. Đó là ông ta có thừa quyền lực và tiền bạc. Nhưng Huấn Cao không phải hạng tiểu nhân như thế, quyền lực không ép được ông cho chữ, tiền bạc không mua được chữ ông. May thay ở viên quản ngục lại có một tấm lòng trong trẻo – tấm lòng biệt nhỡn liên tài. Và tấm lòng này đã khiến cho Huấn Cao cảm động. Sự cảm động này của Huấn Cao là cội nguồn dẫn đến cảnh cho chữ.
Vậy là việc Huấn Cao cho chữ không giống như việc trả nợ một cách tầm thường, không giống việc một kẻ sắp bị tử hình đang đem tài sản cuối cùng cho người sống, cũng không phải là cơ hội cuối cùng mà để Huấn Cao trình diễn tài năng, về bản chất việc cho chữ là sự xúc động của một tấm lòng trước một tấm lòng.
Và cảnh cho chữ được Nguyễn Tuân gọi đó là cảnh xưa nay chưa từng có. Bởi trước hết lẽ ra nó phải diễn ra ở nơi sang trọng, đàng hoàng thì nó lại diễn ra trong căn buồng giam chật hẹp, hôi hám, bẩn thỉu. Và người đem cho cái đẹp lẽ ra phải thuộc thế giới tự do thì ở đây lại là tử tù sắp bị hành hình. Đặc biệt ở đây diễn ra một sự đổi ngôi xưa nay chưa từng có. Kẻ cầm quyền hành trong tay thì bị tước hết quyền uy, khúm núm trước Huấn Cao, kẻ tưởng chừng bị mất hết quyền sống là ông Huấn Cao trở nên đầy quyền uy khi chăm chú tô đậm những nét chữ và cho quản ngục những lời khuyên. Và quản ngục vái lạy Huấn Cao như một bậc thánh nhân: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh. Cảnh cho chữ lã khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp, thiên lương trước cái xấu, cái ác. Trong căn phòng giam ẩm tháp đó, ánh sáng rực rờ của bó đuốc đã đẩy lùi bóng tối, mùi thơm của chậu mực đã xua đuổi mùi phân chuột, phân gián, màu trắng của tấm lụa bạch đã xóa tan sự u ám của nhà tù. Lúc này cái đẹp đang lên ngôi, cái đẹp đang đăng quang, chiến thắng hoàn toàn cái xấu. Trong những con người ấy lúc này chỉ còn là niềm kính trọng, tôn sùng cái đẹp. Và thiên lương của Huấn Cao đang tỏa sáng, soi đường dẫn dắt quản ngục – một kẻ nhầm đường, lạc lối.
Qua đây tác giả cũng khẳng định rằng cái đẹp có thể tồn tại ở mọi nơi, mọi lúc, chiến thắng mọi cái xấu, cái ác. Và cái đẹp có thể cứu rỗi linh hồn con người, giúp con người hiểu nhau hơn, xích lại gần nhau hơn. Cái đẹp sẽ không mất đi ngay cả khi nó bị vùi dập. Đó là giá trị nhân văn của tác phẩm.
Với nghệ thuật vẽ mây, nảy trăng và nghệ thuật đối lập, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật hình tượng Huấn Cao và khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp. Đồng thời nhà văn còn sử dụng hệ thống ngôn ngữ cổ: biệt nhỡn liên tài, thiên lương, bái lĩnh, sở nguyện mang lại cho truyện bầu không khí và nhịp điệu của thời phong kiến xa xưa, giúp nhà văn tái tạo câu chuyện của một thời vang bóng.
Nghị luận Chữ người tử tù (mẫu 6)
Bước vào văn đàn Việt Nam, ta không khỏi ngỡ ngàng bởi cái đẹp hiện hữu khắp mọi nơi, man mác khắp các trang văn: “man mác khắp vũ trụ” (Thạch Lam). Đến với những trang viết của Nguyễn Tuân- “một người suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật”, ta bắt gặp một cuộc gặp gỡ, một cuộc hội ngộ của cái đẹp trong hoàn cảnh đề lao tăm tối, tàn nhẫn. Đó là cuộc gặp gỡ của những nhân cách đẹp, những con người biết tạo ra và trân trọng cái đẹp trong cuộc đời.
Ai đó đã cho rằng: “suy tưởng về cái đẹp là nét nổi bật trong sáng tác của Nguyễn Tuân”. Thật vậy, cái đẹp như một chất xúc tác kì diệu và đến khi bước vào trang viết của Nguyễn Tuân thì được phát lộ, tỏa sáng lạ thường. “Chữ người tử tù” chính là cuộc gặp gỡ của cái đẹp của Huấn Cao và viên quản ngục, cuộc gặp gỡ khác thường của hai con người khác thường giữa chốn lao tù. Bởi sự say mê và ngưỡng mộ, ngục quan – kẻ nắm giữ uy quyền trong nhà lao đã âm thầm biệt đãi Huấn Cao-người tử tù nổi tiếng bởi tài hoa và khí phách phi thường. Đó cũng là cuộc gặp gỡ đặc biệt, một cuộc gặp gỡ chưa từng có bao giờ của một kẻ tù nhân phạm tội với một người đại diện cho pháp luật và uy quyền. Nhưng ở địa hạt của cái đẹp, họ là những nhân cách đồng dạng là những con người biết sinh thành và nuôi dưỡng cái đẹp trong cuộc đời. Xét đến cùng “Chữ người tử tù” là cuộc hội ngộ của những nhân cách cao đẹp bị cầm tù bởi bạo lực, hoàn cảnh, là hiện thân của cái đẹp trong cuộc sống này!
Người đã thai nghén, sinh thành ra cái đẹp trong “Chữ người tử tù” không ai khác, chính là Huấn Cao – “là người của vùng tỉnh Sơn”, “viết chữ rất nhanh, rất đẹp” và “có chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời”. Tiếng thơm của người nghệ sĩ ấy đã được ngợi ca qua những khao khát và sự ngưỡng mộ của quản ngục. Ca ngợi tài hoa của Huấn Cao, coi những con chữ của Huấn Cao là tác phẩm vô giá, Nguyễn Tuân đã gửi gắm lòng yêu quý cái đẹp và sự trân trọng văn hóa cổ truyền dân tộc, đúng như Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét: “Nguyễn Tuân là một trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Lòng yêu nước của ông có màu sắc riêng: gắn liền với những giá trị văn hóa cổ truyền dân tộc”. Song ai đó đã cho rằng “Huấn Cao là sự nổi loạn của cái đẹp”. Quả không sai bởi Huấn Cao không chỉ phát lộ cái đẹp của thiên lương mà còn tỏa sáng cái đẹp rạng ngời của người anh hùng đầy khí phách. Trong hoàn cảnh đề lao nhưng khí phách của ông vẫn không bị nguội lạnh, ông đã dám chống lại triều đình phong kiến, ông tỏ thái độ coi thường, bất chấp trò tiểu nhân thị oai của bọn lính canh, thái độ cao ngạo, khinh bạc trước sự biệt đãi của quản ngục. Đó như là lời thách thức với cường quyền bạo lực. Khi ngục quan khép nép hỏi ông Huấn: “ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu cấp.” Ông Huấn đã trả lời: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây.” Lời nói ấy như một gáo nước lạnh nhưng lại làm quản ngục thêm phần kính nể Huấn Cao. Đó hẳn phải là khí phách của một trang nam nhi chọc trời khuấy nước. Cách hành xử của Huấn Cao cho thấy dù ở trong hoàn cảnh nào ông vẫn hoàn toàn tự do về nhân cách. Sự lễ phép và khúm núm cả viên quản ngục càng tô đậm tầm vóc kì vĩ, vẻ đẹp hiên ngang của ông Huấn. Huấn Cao không vì quyền thế hay tiền bạc mà ép mình cho chữ bao giờ. Cả đời ông cũng chỉ cho chữ ba người bạn thân. Nhưng khi biết được tâm sự và tấm lòng của người quản ngục, Huấn Cao đã đột ngột thay đổi: “nào ta có biết đâu, một người như thầy Quản đây lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ.” Huấn Cao đã nắm bắt và nâng đỡ ánh sáng của thiên lương và việc cho chữ là việc “một tấm lòng ta đền đáp một tấm lòng trong thiên hạ”, là hành động đền đáp một tấm lòng trong thiên hạ. Huấn Cao chính là sự hiện diện của cái đẹp toàn diện, “sự tỏa sáng của những tấm lòng” xuyên suốt “Chữ người tử tù”. Lấy nguyên mẫu từ Cao Bá Quát nhưng dưới ngòi bút Nguyễn Tuân Huấn Cao đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp thiêng liêng, tao nhã của nền văn hóa cổ truyền, kết tinh tinh hoa dân tộc. Yêu mến, ngợi ca và tiếc nuối những con người như ông Huấn, Nguyễn Tuân đã gián tiếp bày tỏ tấm lòng của mình với những giá trị ngàn xưa đồng thời bày tỏ quan niệm thẩm mĩ tiến bộ: cái đẹp, cái thiện luôn luôn song hành và làm nên nhân cách con người. Ai đó đã cho rằng: “Nguyễn Tuân bước vào nghề văn như để chơi ngông với thiên hạ”. Thấp thoáng đâu đó trong bóng dáng của người tử tù ta cũng thấy cái nét “ngông” vừa cổ điển, vừa kế thừa truyền thống tài hoa của thế hệ trước, một cái ngông luôn luôn muốn phản ứng lại hiện thực xã hội đương thời, một cái ngông chỉ xuất hiện trong những trang viết của Nguyễn Tuân.
Đằng sau sự tài hoa của Huấn Cao, nhân vật quản ngục xuất hiện như hiện thân của niềm say mê, trân trọng cái đẹp. Đó như một phép màu kì diệu biến quản ngục thành “thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”. Tâm nguyện cả đời của quản ngục, không gì hơn, đó là có được chữ của ông Huấn để treo ở nhà riêng. Tâm nguyện ấy bỗng chốc biến viên quản ngục đẹp như một người nghệ sĩ thực thụ, biết say mê, biết hướng về cái đẹp đúng như Ralph Waldo Emerson cho rằng: “Yêu cái đẹp là thường thức. Tạo ra cái đẹp nghệ thuật. Nhưng biết trân trọng cái đẹp mới là người nghệ sĩ chân chính”. Quản ngục biệt đãi Huấn Cao, luôn luôn cung kính và lễ phép trước thái độ kiêu ngạo của ông Huấn, thành kính đón nhận những lời khuyên của ông. Chính điều đó đã mở đường cho quản ngục đến với cái đẹp. Tư thế khúm núm, thái độ và hành động bên ngoài có vẻ ủy mị khi lắng nghe lời khuyên của Huấn Cao đã làm sáng lên vẻ đẹp nhân cách của ngục quan, làm cho nhân vật trở nên đáng quý, đáng trân trọng. Đặc biệt, ông còn cúi đầu thành kính đón nhận lời khuyên của ông Huấn. Ông cúi đầu nhưng không hề trở nên hèn kém mà trái lại, nó còn làm cho ông trở nên cao thượng hơn bao giờ. Nguyễn Đăng Mạnh từng cho rằng: “Có những cái cúi đầu làm cho con người trở nên hèn hạ, có những cái cúi lậy làm con người trở nên đê tiện. Nhưng cũng có những cái cúi đầu làm con người trở nên cao cả hơn, lớn lao hơn, lẫm liệt hơn, sang trọng hơn. Đấy là cái cúi đầu trước cái tài, cái đẹp, cái thiên lương”. Và cái cúi đầu của quản ngục cũng thật cao đẹp chẳng khác nào cái cúi đầu của Cao Bá Quát khi xưa: “Nhất sinh đê thủ bái mai hoa” (Cả đời sinh ra chỉ để cúi đầu trước hoa mai). Nếu Huấn Cao là nơi nhà văn gửi gắm những quan niệm thẩm mĩ tiến bộ thì quản ngục là nơi nhà văn gửi những quan niệm nhân sinh sâu sắc: Bản thân mỗi con người luôn khao khát và hướng về cái đẹp. Bởi vậy, phải biết nhìn sâu vào tâm hồn con người để nắm bắt ánh sáng của thiên lương. Và hơn cả, cái đẹp “man mác khắp vũ trụ”, nó tồn tại ngay cả trong cái ác để đẩy lùi bóng tối, hướng con người tới cuộc sống tốt đẹp hơn.
Cảnh tượng đẹp nhất trong “Chữ người tử tù “chính là cảnh cho chữ – một cảnh tượng xưa nay chưa từng có bao giờ, đặc biệt là trong hoàn cảnh đề lao, nơi “người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc”, cái đẹp vẫn ngang nhiên được sinh thành. Ta ngỡ ngàng khi thấy “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván”. Bóng tối của nhà tù thực dân đã bị đẩy lùi bởi ánh sáng của tài hoa, thiên lương, nhường chỗ cho cái đẹp được sinh thành. Cái đẹp đã trở thành tác nhân làm đảo lộn ý thức xã hội, nó được khai sinh trên một mảnh đất chết, từ bàn tay của người tử tù sắp chết nhưng vẫn phát lộ rực rỡ và có sức cảm hóa mãnh liệt. Lời khuyên của quản ngục dành cho người tử tù đã thể hiện một quan niệm sâu sắc về nghệ thuật: Cái đẹp không bao giờ chung sống với cái ác, mãi mãi là như vậy. Đó cũng là niềm tin sắt đá của Nguyễn Tuân về sức mạnh của cái đẹp, cái đẹp sẽ cứu rỗi thế giới này!
Vũ Ngọc Phan cho rằng: “Đọc văn Nguyễn Tuân bao giờ người ta cũng thấy một hứng thú đặc biệt: sự thâm trầm trong ý nghĩ, sự lọc lõi trong quan sát, sự hành văn một cách hoàn toàn Việt Nam”. Thật vậy, cái hứng thú đặc biệt ấy không chỉ toát lên từ tác phẩm mà còn toát lên từ hình thức nghệ thuật độc đáo. Ông sử dụng bút pháp tương phản để dựng lên sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, để tô đậm sự thắng thế của cái đẹp trong cuộc đời. Ai đó đã cho rằng “ngôn ngữ của Nguyễn Tuân tuôn ra như muốn thi tài với hóa công”. Nhà văn với văn phong “đặc Việt Nam” (Vũ Ngọ) ấy đã khéo léo sử dụng những từ Hán Việt để tạo màu sắc cổ kính, trang nghiêm cho tác phẩm, để “Chữ người tử tù” trở thành một trong những” nén tâm hương nguyện cầu cho cái đẹp cổ truyền Việt Nam” (Văn Tâm). Câu chuyện như một thước phim quay chậm, người đọc như được chứng kiến tận mắt ánh sáng được nhen lên, tỏa sáng và che đi bóng tối. Và các nét chữ hiện hình “như một nét bút trác tuyệt được chạm khắc tinh xảo trên mặt đá quý của ngôn từ”.
“Chỉ người suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, bởi văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức” (Vũ Ngọc Phan). Bởi vậy, khi đến với chữ người tử tù, hãy từ từ đón nhận ánh sáng của cái đẹp để thanh lọc tâm hồn, để thấu hiểu và cảm nhận…” Chữ người tử tù không chỉ “vang bóng một thời” mà còn vang bóng mãi muôn sau.
Nghị luận Chữ người tử tù (mẫu 7)
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà Nho hiếu học, Nguyễn Tuân đã dành cả cuộc đời mình để săn tìm cái đẹp hướng đến chân – thiện – mỹ. Không thể phủ định được những đóng góp lớn lao của ông cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm “Chữ người tử tù” trích trong tập “Vang bóng một thời” là truyện ngắn đặc sắc đánh dấu tài năng nghệ thuật của Huấn Cao trước cách mạng tháng Tám và được coi là một tác phẩm gần như đạt đến độ hoàn mĩ.
Ở cuối tác phẩm, cảnh cho chữ là cảnh được tác giả tập trung miêu tả, tô đậm vẻ đẹp của người anh hùng Huấn Cao, qua chi tiết đó tác giả muốn khẳng định sự chiến thắng của thiên lương. Có thể nói đây cảnh tượng đắt giá nhất xưa nay chưa từng có.
Chúng ta có thể thấy, từ xưa tới nay chơi chữ là thú vui tao nhã, thanh cao của những người có học thức, các sĩ tử,… Các câu đối, châm ngôn cuộc sống, bài thơ nổi tiếng được những người nghệ sĩ thư pháp uyển chuyển viết lên giấy giúp cho tâm hồn của con người được thư thái. Chơi chữ chính là nói lên cái đẹp, tài năng và trí tuệ của con người. Chúng ta sẽ thường bắt gặp cảnh cho chữ được diễn ra ở những nơi trang trọng, có đủ trăng hoa tuyết nguyệt để khơi nguồn cảm xúc, rồi từ đó có những nét chữ uyển chuyển trong đó có cả cái hồn riêng được ra đời. Nhưng với sự sáng tạo của Nguyễn Tuân thì cảnh cho chữ là một cảnh tượng hết sức lạ lùng, vượt ra khỏi những chuẩn mực xã hội xưa cũ và cho đến bây giờ chúng ta vẫn gọi đó là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Nhưng chính chi tiết lạ lùng ấy đã làm cho giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm được nâng lên, từ đó tạo nên sức lôi cuốn và hấp dẫn cho bạn đọc.
Không gian và thời gian trong cảnh cho chữ được tác giả miêu tả rất sinh động và chân thực. Vào một đêm khuya vắng lặng, khi bóng tối đã bao trùm và thống trị nơi đây. Cùng với tiếng gõ mõ vọng cạnh, nhà tù đã hiện lên một cách chật hẹp, tù túng, ẩm thấp, mệt mỏi và những tiếng thở dài bất lực trước xã hội đương thời. Một nghệ sĩ tài hoa, uyên bác giờ đây lại bị giam trong nhà tù tăm tối, thế nhưng tại chính nơi hạ đẳng, tăm tối đó lại xảy ra một cảnh tượng làm rung động trái tim của những con người tài hoa chân chính.
Một không gian tăm tối không thể thấy ánh mặt trời dù là ngày hay đêm, trong khung cảnh như vậy có ba người “đang chăm chú trên một tấm bạch còn nguyên vẹn lần hồ”. Ngay lúc này buồng gian ngập tràn “khói tỏa như đám cháy nhà”, “ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu”, họ đang chăm chú với niềm hạnh phúc dâng trào để tạo nên một tác phẩm hoàn mỹ. Sự đối lập về vị thế giữa Huấn Cao – người cho chữ và người nhận chữ – viên quản ngục, tác giả đã khắc họa sắc nét, sinh động từng hành động, cử chỉ và thái độ của 2 nhân vật này. Chỉ qua một chi tiết nhỏ này thôi tác giả đã bộc lộ hết những phẩm chất tốt đẹp của con người nơi tăm tối.
Có lẽ vì đứng trước cái đẹp nên những cảnh tượng xung quanh đang diễn ra bỗng nhiên như chậm lại, khiến cho trái tim con người rung động, như có một thứ gì đó bóp nghẹt, không ai nói với nhau câu nào nhưng vẫn đủ để cảm nhận được niềm hạnh phúc, vui sướng đang tuôn trào trong lồng ngực của mỗi con người yêu cái đẹp nơi tù túng này. Ta có thể thấy lạ, là một viên quản ngục “quyền cao chức trọng” nhưng lại cúi đầu trước một người tù, thực chất viên quản ngục đang cúi đầu trước cái vẻ đẹp tài hoa và người tử tù có tấm lòng thiên lương trong sáng. Khi nét chữ cuối cùng đã viết xong Huấn Cao thở dài buồn bã, ông khuyên viên quản ngục nên đổi nghề và đổi chỗ ở để có thể giữ cho thiên lương trong sáng, thức tỉnh và cứu rỗi tâm hồn viên quản ngục đang bị tha hóa, rối ren, rơi vào nơi vấy bẩn của xã hội. Trước những lời khuyên đó, viên quản ngục đã xúc động, cảm kích và kính trọng Huấn Cao, những giọt nước mắt lăn dài trên má ông chính là những giọt nước mắt thể hiện sự tiếc thương cho số phận người anh hùng đầy khí phách Huấn Cao.
Qua cảnh cho chữ đầy xúc động, tác giả Nguyễn Tuân đã ngầm khẳng định vị thế của cái đẹp thiên lương, ở bất cứ đâu, cho dù là nơi tối tăm nhất thì cái đẹp vẫn tồn tại, thậm chí là tồn tại không đơn độc. Nó như một sức mạnh vô hình chỉ đường dẫn lối cho những người tốt có tấm lòng nhân hậu đang bị lạc nơi bóng tối bao trùm và tội ác hoành hành trở về đúng con đường chân chính, tươi đẹp. Người đọc có thể cảm nhận được rằng tác giả là người giàu kiến thức, có sức tưởng tượng cô cùng phong phú và độc đáo. Chính vì vậy mà tác giả có thể vẽ nên một bức tranh với hai mảng màu sáng tối đối lập nhau gay gắt, một bên là màu của khung cảnh tăm tối nơi ngục tù, một bên là ánh sáng chói lóa của nét đẹp hoàn mỹ.
Kết tinh bởi tài năng, sáng tạo và tư tưởng độc đáo Nguyễn Tuân đã biến cảnh cho chữ thành cảnh tượng chưa nay chưa từng có. Tác phẩm đã thể hiện sự tiếc nuối của chính tác giả và người đọc trước số phận của những con người yêu cái đẹp, luôn hướng đến cái chân – thiện – mỹ. Xen vào đó, tác giả đã khéo léo bày tỏ tấm lòng của mình một cách kín đáo, tiếc thương trước số phận người anh hùng nhân hậu, khí phách và có nhân cách cao thượng.
Nghị luận Chữ người tử tù (mẫu 8)
Trong các sáng tác của Nguyễn Tuân, các nhân vật thường được miêu tả, nhìn nhận như một nghệ sĩ. Và tác phẩm “Chữ người tử tù” cũng được xây dựng bằng cách nhìn nhận như vậy. Bên cạnh đó, nhà văn đã khéo léo sáng tạo lên một tình huống truyện vô cùng độc đáo. Đó là cảnh cho chữ trong nhà giam- là phần đặc sắc nhất của thiên truyện này “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Đoạn cho chữ nằm ở phần cuối tác phẩm, ở vị trí này tình huống truyện được đẩy lên đến đỉnh điểm vì viên quản ngục bỗng nhận được công văn về việc xử tử những tên phản loạn, trong đó có Huấn Cao. Do vậy cảnh cho chữ có ý nghĩa cởi nút,giải tỏa những băn khoăn, chờ đợi nơi người đọc, từ đó toát lên những giá trị lớn lao của tác phẩm.
Sau khi nhận được công văn, viên quản ngục đã giãi bày tâm sự của mình với thầy thơ lại. Nghe xong truyện, thầy thơ lại đã chạy xuống buồng giam Huấn Cao để kể rõ nỗi lòng viên quản ngục. Và đêm hôm đó, trong một buồng tối chật hẹp với ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” đang diễn ra. Thông thường để sáng tạo nghệ thuật người ta thường tìm đến những nơi có không gian đẹp, thoáng đãng , yên tĩnh. Nhưng trong một không gian chứa đầy bóng tối, nhơ bẩn chốn ngục tù thì việc sáng tạo nghệ thuật vẫn xảy ra. Thời gian ở đây cũng gợi cho ta tình cảnh của người tử tù. Đây có lẽ là đêm cuối của người tử tù-người cho chữ và cũng chính là giờ phút cuối cùng của Huấn Cao. Và trong hoàn cảnh ấy thì “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng” vẫn ung dung, đĩnh đạc “dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh”. Trong khi ấy, viên quản ngục và thầy thơ lại thì khúm lúm chuyển động.ở đây cho thấy dường như trật tự xã hội đang bị đảo lộn. Viên quản ngục đáng nhẽ phải hô hào, răn đe kẻ tù tội. Thế nhưng trong cảnh tượng này thì tù nhân lại trở thành người răn dạy, ban phát cái đẹp.
Đây quả thực là một cuộc gặp gỡ xưa nay chưa từng có giữa Huấn Cao – người có tài viết chữ nhanh, đẹp và viên quản ngục, thầy thơ lại – những người thích chơi chữ. Họ đã gặp nhau trong hoàn cảnh thật đặc biệt: một bên là kẻ phản nghịch phải lĩnh án tử hình (Huấn Cao) và một bên là những người thực thi pháp luật. Trên bình diện xã hội, họ ở hai phía đối lập nhau nhưng xét trên bình diện nghệ thuật họ lại là tri âm, tri kỉ của nhau. Vì thế mà thật là chua xót vì đây là lần đầu tiên nhưng cũng là lần cuối cùng ba con người ấy gặp nhau. Hơn thế nữa, họ gặp nhau với con người thật, ước muốn thật của mình. Trong đoạn văn, nhà văn đã sử dụng sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối làm câu chuyện cũng vận động theo sự vận động của ánh sáng và bóng tối. Cái hỗn độn, xô bồ của nhà giam với cái thanh khiết của nền lụa trắng và những nét chữ đẹp đẽ. Nhà văn đã làm nổi bật hình ảnh của Huấn Cao, tô đậm sự vươn lên thắng thế của ánh sáng so với bóng tối, cái đẹp so với cái xấu và cái thiện so với cái ác. Vào lúc ấy, từ một quan hệ đối nghịch kì lạ: ngọn lửa của chính nghĩa bùng cháy ở chốn ngục tù tối tăm, cái đẹp được sáng tạo giữa chốn hôi hám, nhơ bẩn… ở đây, Nguyễn Tuân đã nêu bật chủ đề của tác phẩm: cái đẹp chiến thắng cái xấu xa, thiên lương chiến thắng tội ác. Đó là sự tôn vinh cái đẹp, cái thiện đầy ấn tượng.
Sau khi cho chữ xong, Huấn Cao đã khuyên quản ngục từ bỏ chốn ngục tù nhơ bẩn: “đổi chỗ ở” để có thể tiếp tục sở nguyện cao ý. Muốn chơi chữ phải giữ được thiên lương. Trong môi trường của cái ác, cái đẹp khó có thể bền vững. Cái đẹp có thể nảy sinh từ chốn tối tăm, nhơ bẩn, từ môi trường của cái ác( cho chữ trong tù) nhưng không thể chung sống với cái ác. Nguyễn Tuân nhắc đến thú chơi chữ là môn nghệ thuật đòi hỏi sự cảm nhận không chỉ bằng thị giác mà còn cảm nhận bằng tâm hồn. Người ta thưởng thức chứ không mấy ai thấy, cảm nhận mùi thơm của mực. Hãy biết tìm trong mực trong chữ hương vị của thiên lương. Cái gốc của chữ chính là cái thiện và chơi chữ chính là thể hiện cách sống có văn hóa.
Trước lời khuyên của người tử tù, viên quản ngục xúc động “ vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng nghẹn ngào: kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Bằng sức mạnh của một nhân cách cao cả và tài năng xuất chúng, người tử tù đã hướng quản ngục đến một cuộc sống của cái thiện. Và trên con đường đến với cái chết Huấn Cao gieo mầm cuộc sống cho những người lầm đường. Trong khung cảnh đen tối của tù ngục, hình tượng Huấn Cao bỗng trở lên cao lớn là thường, vượt lên trên những cái dung tục thấp hèn của thế giới xung quanh. Đồng thời thể hiện một niềm tin vững chắc của con người: trong bất kì hoàn cảnh nào con người vẫn luôn khao khát hướng tới chân – thiện – mĩ.
Có ý kiến cho rằng: Nguyễn Tuân là nhà văn duy mĩ, tức là điều khiến ông quan tâm chỉ là cái đẹp, là nghệ thuật. Nhưng qua truyện ngắn “ Chữ người tử tù” mà đặc biệt là cảnh cho chữ ta càng thấy rằng nhận xét trên là hời hợt, thiếu chính xác. Đúng là trong truyện ngắn này, Nguyễn Tuân ca ngợi cái đẹp nhưng cái đẹp bao giờ cũng gắn với cái thiện, thiên lương con người. Quan điểm này đã bác bỏ định kiến về nghệ thuật trước cách mạng, Nguyễn Tuân là một nhà văn có tư tưởng duy mĩ, theo quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật. Bên cạnh đó, truyện còn ca người viên quản ngục và thầy thơ lại là những con người tuy sống trong môi trường độc ác xấu xa nhưng vẫn là những “thanh âm trong trẻo” biết hướng tới cái thiện. Qua đó còn thể hiện tấm lòng yêu nước, căm ghét bọn thống trị đương thời và thái độ trân trọng đối với những người có “thiên lương” trên cơ sở đạo lí truyền thống của nhà văn.
“Chữ người tử tù” là bài ca bi tráng, bất diệt về thiên lương, tài năng và nhân cách cao cả của con người. Hành động cho chữ của Huấn Cao, những dòng chữ cuối cùng của đời người có ý nghĩa truyền lại cái tài hoa trong sáng cho kẻ tri âm, tri kỉ hôm nay và mai sau. Nếu không có sự truyền lại này cái đẹp sẽ mai một. Đó cũng là tấm lòng muốn giữ gìn cái đẹp cho đời.
Bằng nhịp điệu chậm rãi, câu văn giàu hình ảnh gợi liên tưởng đến một đoạn phim quay chậm. Từng hình ảnh, từng động tác dần hiện lên dưới ngòi bút đậm chất điện ảnh của Nguyễn Tuân: một buồng tối chật hẹp…hình ảnh con người “ba cái đầu đang chăm chú trên một tấm lụa trắng tinh”, hình ảnh người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang viết chữ. Trình tự miêu tả cũng thể hiện tư tưởng một cách rõ nét: từ bóng tối đến ánh sáng, từ hôi hám nhơ bẩn đến cái đẹp. Ngôn ngữ, hình ảnh cổ kính cũng tạo không khí cho tác phẩm. Ngôn ngữ sử dụng nhiều từ hán việt để miêu tả đối tượng là thú chơi chữ. Tác giả đã “phục chế” cái cổ xưa bằng kĩ thuật hiện đại như bút pháp tả thực, phân tích tâm lí nhân vật.( văn học cổ nói chung không tả thực và phân tích tâm lí nhân vật)
Cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù” đã kết tinh tài năng, sáng tạo và tư tưởng độc đáo của Nguyễn Tuân. Tác phẩm đã nói lên lòng ngưỡng vọng và tâm sự nuối tiếc đối với những con người có tài hoa, nghĩa khí và nhân cách cao thượng. Đan xen vào đó tác giả cũng kín đáo bày tỏ cái đau xót chung cho cái đẹp chân chính, đích thực đang bị hủy hoại. Tác phẩm góp một tiếng nói đầy tính nhân bản: dù cuộc đời có đen tối vẫn còn có những tấm lòng tỏa sáng.
Nghị luận Chữ người tử tù (mẫu 9)
Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa của nền văn học Việt Nam. Nghiệp sáng tác của ông chia thành hai giai đoạn trước cách mạng tháng Tám và sau cách mạng tháng Tám. Trước cách mạng, ngòi bút của ông thiên về phương châm “Vang bóng một thời-trụy lạc-xê dịch”. Truyện ngắn “Chữ người tử tù” là tác phẩm kiệt xuất trước cách mạng tháng Tám, đã khắc họa thành công hình ảnh Huấn Cao, một kẻ sĩ tài hoa, có tấm lòng thẳng thắn.
Huấn Cao là một kẻ sĩ xả thân vì đại nghĩa, lên án và tố cáo sự trắng trợn của triều đình, ông bất chấp tất cả để chống lại triều đình mục nát, thối rữa. Huấn Cao trong mắt của bọn lính là một kẻ “ngạo ngược và nguy hiểm nhất”, nên đề phòng. Đối với thầy thơ thì ông “văn võ đều có tài cả, chà chà” còn đối với người quản ngục thì Huấn Cao là người “chọc trời khuấy nước”, coi thường tiền bạc và bạo lực. Với những cách nhìn ấy, Huấn Cao là một người tài ba trong mắt của mọi người, là một kẻ tù nhưng lại có tấm lòng kiên trung, toát lên sự thanh cao giữa chốn xiềng xích nhơ bẩn.
Bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Tuân đã vẽ lên hình ảnh Huấn Cao bộc trực, đầy hào khí, từng đường nét đều rất thoát phàm, rất độc đáo. Là một kẻ tù nhưng Huấn Cao dường như chẳng sợ trời, chẳng sợ đất, ông có thể thét lên với bất cứ ai. Không cần hành động nhưng khí phách của ông lại khiến cho mọi người nể phục.
Huấn Cao giữa chốn lao tù này còn được biết đến là kẻ sĩ tài hoa, người đời mến mộ bằng cái tên “cái người mà vùng tỉnh Sơn đã khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp..” Những kẻ sĩ có chữ đẹp luôn được sùng bái và ngưỡng mộ như vậy. Chữ của ông như “một báu vật trên đời”, ai có diễm phúc sở hữu chữ của ông chính là sở hữu một vật báu trong thiên hạ. Huấn Cao không biết ông quản ngục luôn có một ước mong được sở hữu chữa Huấn Cao, được treo chữ của ông viết ở trong nhà, chữ ông Huấn Cao đẹp và vuông lắm. Một con người tài đức vẹn toàn, một con người không chỉ tài hoa mà còn có cái tâm rất trong sáng và ngay thẳng. Kỳ thực ông viết chữ đẹp nhưng chưa bao giờ “ép mình viết bao giờ” Đây là cốt cách thực sự đáng quý. Ông chỉ viết cho những người thực sự xứng đáng, những người có thể khiến ông ngưỡng mộ và khâm phục nhất.
Nguyễn Tuân thực sự rất tài, tài đến nối đọc từng câu từng chữ của ông người ta cứ ngỡ như ông đang vẽ nên một bức họa thật sinh động giữa chốn nhân gian về một kẻ sĩ đáng trọng như Huấn Cao.
Huấn Cao còn là một người trân trọng tình bạn, mến mộ những con người có “chí nhớn” trong thiên hạ. Qua lời kể của viên thơ lại, ông đã biết được tấm lòng của viên quản ngục và ngưỡng mộ trước tấm chân tình cũng như sự yêu mến và khát khao có được chữ của ông. Ông xúc động nhận ra được con người có thú vui thanh tao giữa chốn nhơ bẩn này “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Nào ta biết đâu một người như thầy quản mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Chỉ một cụm từ “phụ một tấm lòng trong thiên hạ”, Huấn Cao đã khiến cho người đọc không thể nén được cảm xúc. Một con người biết trân trọng cái đẹp, hướng về cái đẹp, đó là một lối sống hướng đến vẻ đẹp “Chân-Thiện-Mỹ”.
Hình ảnh cảnh cho chữ hiện lên ở cuối tác phẩm dường như là cảnh tượng khó quên nhất trong tác phẩm. Một cảnh tượng khiến cho người đọc nhớ mãi. Cảnh cho chữ diễn ra không phải ở một nơi thanh cao mà lại diễn ra giữa chốn ngục tù, là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Hình ảnh ba con người hiện lên trong cảnh tượng ấy thật đẹp, thật lung linh, họ không còn là người tù, viên quản ngục nữa mà là những người yêu cái đẹp, tâm đắc với cái đẹp. Cảnh cho chữ ấy thật thiêng liêng và xúc động, sự gặp gỡ quá muộn màng giữa những con người yêu cái đẹp, yêu cái vẻ đẹp hoàn thiện nhất. Hình ảnh Huấn Cao vướng xiềng xích, bút viết những chữ vuông vắn nhất thực sự là hình ảnh đẹp nhất, đáng ngưỡng mộ và khâm phục nhất. Hình ảnh viên quản ngục “vái lạy” Huấn Cao và Huấn Cao đỡ viên quản ngục dây thực sự là hình ảnh ám ảnh khi gấp trang sách lại. Thời khắc mong manh giữa sự sống và cái chết khiến cho người kẻ sĩ ấy thêm kì vĩ, lấp lánh hơn. Kẻ tử tù không thể có cốt cách như vậy, chỉ có anh hùng mới xứng đáng với cốt cách ấy. Và Huấn Cao là một đấng anh hùng như vậy.
Huấn Cao hiện lên rõ nét, oai phong, đĩnh đạc qua từng nét bút của Nguyễn Tuân thực sự khiến cho người đọc không thể rời mắt khỏi trang viết. Huấn Cao là biểu tượng của cái đẹp vĩnh cửu, của những gì hoàn hảo và kiên trung nhất. Một con người “khó kiếm” trong thiên hạ.
Thật vậy, gấp trang sách lại nhưng hình ảnh Huấn Cao vẫn hiện hiển trong trí óc của người đọc. Ông là hình ảnh tiêu biểu cho những anh hùng hiên ngang bất khuất giữa chốn nhơ bẩn, bất công của thời đại.
Nghị luận Chữ người tử tù (mẫu 10)
Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một nghệ sĩ tài hoa. Người ta thấy dưới ngòi bút của ông lời văn hiện lên đều là những nét bút trác tuyệt như một nét chạm khắc tinh xảo trên mặt đá quý của ngôn ngữ. Một trong những nét bút trác tuyệt đó là tác phẩm Chữ người tử tù. Hình tượng nhân vật Huấn Cao và cảnh cho chữ – một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã được tác giả xuyên suốt trong đoạn trích.
Truyện ngắn Chữ người tử tù lúc đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng, in năm 1938 trên tạp chí Tao Đàn, sau đó được tuyển in trong tập truyện Vang bóng một thời và đổi tên thành Chữ người tử tù. Nhân vật chính trong Chữ người tử tù là Huấn Cao, một nhân vật điển hình trong các tác phẩm của Nguyễn Tuân trước Cách mạng. Đó là những người tài hoa, bất đắc chí. Họ không chỉ có tài mà còn có cái tâm trong sáng, mặc dù chí không thành nhưng tư thế vẫn hiên ngang, bất khuất.
Đoạn trích Chữ người tử tù là một câu chuyện về một viên quản ngục mến mộ tài năng, nhất là tài viết chữ Hán đẹp, nhưng éo le thay cho số phận lại là một người bị án tử hình (chém), trước cái tài, cái đẹp viên quản ngục đã bí mật đối đãi trân trọng bởi tử tù với mong ước xin được chữ quý. Làm mọi cách để xin chữ nhưng do Huấn Cao – tử tù tưởng viên quản ngục là người xấu nên đã không cho, cao trào đoạn trích dâng cao khi tử tù bị mang ra pháp trường thì ông lại được tử tù cho chữ và những lời khuyên đáng trân trọng trong cuộc sống.
Tình huống truyện là tình thế xảy ra trong truyện, tạo ra cho câu chuyện thêm đặc sắc. Nguyễn Tuân đã xây dựng nên một tình huống truyện tưởng như éo le nhưng chính cái eo le ấy lại mang lại tính kịch tính của câu chuyện giữa nhân vật này với nhân vật khác, giữa nhân vật với hoàn cảnh để làm hiện lên những nét đẹp của con người tài đức.
Bằng ngòi bút văn học lãng mạn tức là mô phỏng theo những mẫu hình lí tưởng. Có nghĩa là nhà văn thường thả trí tưởng tượng của mình để theo đuổi những vẻ đẹp hoàn hảo nhất. Bởi thế nhân vật viết theo lối lãng mạn có tầm vóc phi thường. Trong đoạn trích này, Nguyễn Tuân đã xây dựng hình ảnh nhân vật Huấn Cao là nhân vật khá điển hình cho bút pháp lãng mạn. Tác giả để nhân vật chính hiện lên gián tiếp thông qua cuộc đối thoại giữa viên thơ lại và quản ngục. Tuy hiện lên gián tiếp nhưng có thể thấy được vẻ đẹp của Huấn Cao là một vẻ đẹp của người văn võ toàn tài, uy danh đồn khắp cõi tỉnh Sơn. Cái tài của Huấn Cao được tô đậm bằng việc viết chữ đẹp, mà người ta thường có câu “nét chữ nết người”. Nét chữ của ông “đẹp lắm, vuông lắm” khiến nhiều người mơ ước có được. Bởi thế mỗi con chữ là một tác phẩm nghệ thuật sâu xa của mình. Nó là sự kết tinh những vẻ đẹp tâm hồn của người viết. Mỗi con chữ là hiện thân của khí phách, của thiên lương và tài hoa. Chữ Huấn Cao thể hiện nhân cách Huấn Cao. Nó quý giá không chỉ vì được viết rất nhanh, rất đẹp, đẹp lắm, vuông lắm mà trước hết vì đó là những con chữ nói lên khát vọng tung hoành của một đời con người. Chính vì thế mà có được chữ của ông Huấn Cao đã trở thành tâm nguyện lớn nhất, thiêng liêng nhất của quản ngục. Để có được chữ Huấn Cao, quản ngục sẵn sàng đánh đổi tất cả, kể cả sự hi sinh về quyền lợi và sinh mệnh của mình.
Ngoài tài cao, ông còn là một người có tấm lòng trong sáng, cao quý. Mặc dù có tài, và nhiều người sẵn sàng mua chữ của ông, nhưng ông cũng không bán. Ông chỉ cho chữ, khi người đó thực sự đáng kính, đáng tôn và cũng phải có vẻ đẹp, biết trân trọng cái Thiện, cái Mỹ.
Tính cách của Huấn Cao như vậy, nên khi viên quản ngục có ý định xin chữ, và đối tốt với ông, ông luôn tỏ ra bất cần và không quan tâm. Tưởng như quản ngục là một người làm việc không tốt và là bè lũ tay sai của bọn quan lại tham ô, hối lộ, k xứng đáng làm quan. Thế nhưng, ngược lại quản ngục lại hiện lên trước mắt người đọc là một nhân vật lương thiện, biết phân biệt đẹp tốt, có thú chơi tao nhã: chơi chữ. Sở nguyện cả đời của ông là có được đôi câu đối do chính tay Huấn Cao viết để treo trang trọng trong nhà. Cái sở nguyện này mạnh mẽ vượt qua cả nỗi sợ hãi, bất chấp mọi nguy hiểm đến bản thân, làm đảo lộn trật tự trong tù, biến một phạm nhân có án tử hình thành một thần tượng để mình tôn thờ.
Thế nhưng, khi biết được sự lương thiện và ước mong chính đáng, biết quý trọng cái đẹp Huấn Cao liền cho quản ngục chữ. Cái hay ở đây là, người ta thường thấy cảnh cho chữ diễn ra ở khuê phòng, người cho chữ trong tâm trạng thoải mái. Nhưng ở đây, Huấn Cao lại là người tử tù, ngày mai bị mang ra pháp trường xử chém. Trong khi, không gian lại chật hẹp, toàn mùi phân gián, phân chuột, ngọn đuốc cháy phập phồng trong đêm. Bất chấp điều đấy, một cảnh tượng đẹp được hiện lên đó là cảnh cho chữ của những con người biết hướng về cái đẹp, quý trọng vẻ đẹp chân chính. Vẻ đẹp kết hợp giữa cái Tài với cái Tâm. Có thể nói, cảnh tượng cho chữ ngày xưa nay chưa từng có. Sau khi cho chữ, Huấn Cao còn khuyên quản ngục về quê sống, tránh xa những nơi bon chen, cuộc sống lấm lem, không hợp với những người thích chơi chữ như quản ngục. Trong những con người ấy lúc này chỉ còn là niềm kính trọng, tôn sùng cái đẹp. Và thiên lương của Huấn Cao đang tỏa sáng, soi đường dẫn dắt quản ngục – một kẻ nhầm đường, lạc lối.
Cũng qua đây tác giả cũng khẳng định rằng cái đẹp có thể tồn tại ở mọi nơi, mọi lúc, chiến thắng mọi cái xấu, cái ác. Và cái đẹp có thể cứu rỗi linh hồn con người, giúp con người hiểu nhau hơn, xích lại gần nhau hơn. Cái đẹp sẽ không mất đi ngay cả khi nó bị vùi dập. Đó là giá trị nhân văn của tác phẩm.
VII. Nghị luận về Chí Phèo
Nghị luận Chí Phèo (mẫu 1)
Nam Cao sáng tác từ trước năm 1940, nhưng chỉ sau khi truyện ngắn Chí Phèo ra đời, ông mới được biết đến như một cây bút hiện thực xuất sắc. Cũng từ khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang viết của Nam Cao, nhân vật này đã để lại dấu ấn khó quên và nỗi day dứt, ám ảnh không nguôi trong lòng người đọc.
Với tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao xứng đáng là một trong những tên tuổi lớn của trào lưu văn học hiện thực giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945 như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… Cùng viết về đề tài nông dân nhưng các tác phẩm của Nam Cao, đặc biệt là truyện ngắn Chí Phèo đã đạt tới một giá trị nhân đạo sâu sắc thông qua một hình thức mới mẻ. Nếu như các nhà văn khác đi sâu vào phản ánh phong tục hay đời sống cùng cực của nông dân dưới thời thực dân phong kiến thì Nam Cao lại chú trọng đến việc thể hiện nỗi đau đớn của những tâm hồn, nhân cách bị xúc phạm, bị hủy diệt. Đồng thời, ông cũng kín đáo bênh vực và khẳng định nhân phẩm của những con người cùng khổ. Chí Phèo là nhân vật thể hiện rõ nhất cái nhìn mới mẻ của Nam Cao về người nông dân trước Cách mạng.
Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì. Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Thế nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã tả tơi và không sao gượng dậy được.
Có ai ngờ anh canh điền chất phác ấy đã thực sự bị tha hóa bởi sự ghen ghét, tù đày, để rồi biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Vì ghen tuông vô lối, lí Kiến đã nhẫn tâm đẩy Chí vào tù và nhà tù thực dân đã nhào nặn Chí thành một con người khác hẳn. Đây là nguyên nhân trực tiếp tạo nên bước ngoặt đau thương và bi kịch trong cuộc đời Chí. Nhưng nguyên nhân sâu xa chính là xã hội đương thời với những thế lực bạo tàn luôn tìm cách vùi dập những người nông dân thấp cổ bé họng như Chí. Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa là tất yếu.
Ra tù, Chí biến thành một con người hoàn toàn khác trước, với một cái tên sặc mùi giang hồ là Chí Phèo: Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng săng đá… Cái đầu thì trọc lốc. Cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Nhà tù thực dân tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến, bắt bỏ tù một anh Chí hiền lành, vô tội, để rồi thả ra một gã Chí Phèo lưu manh, côn đồ. Từ một người lương thiện, Chí bị biến thành quỷ dữ.
Trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm được quy luật của sự sinh tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được. Phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Hắn đã mượn men rượu để tạo ra những cái đó. Hắn chìm ngập trong những cơn say triền miên và làm những việc như rạch mặt ăn vạ, đâm chém người cũng trong cơn say. Chí Phèo đã bị bá Kiến – kẻ thù của hắn biến thành con dao trong tay đồ tể.
Với nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh chân thực và sinh động bi kịch bị hủy diệt tâm hồn và nhân phẩm của những người nông dân nghèo khổ. Chí Phèo đã sa lầy trong vũng bùn của sự tha hóa: Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dơ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu hắn đã phá vỡ bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Tất cả dân làng Vũ Đại quay lưng với hắn, khinh bỉ và ghê tởm hắn. Người ta sợ bộ mặt đầy những vết sẹo ngang dọc gần giống như mặt thú dữ của hắn, sợ con quỷ trong tâm hồn hắn.
Sự tha hóa của Chí Phèo một mặt tố cáo sự tàn bạo của xã hội thực dân phong kiến đã không cho con người được làm người, mặt khác thể hiện giá trị nhân đạo mới mẻ của Nam Cao trong cách nhìn nhận số phận người nông dân trước Cách mạng.
Đi sâu vào bi kịch tinh thần của nông dân, Nam Cao nhận ra vẻ đẹp ẩn chứa trong sâu thẳm tâm hồn họ. Chí Phèo bị bạo lực đen tối hủy diệt nhân phẩm nhưng trong đầu óc hắn vẫn le lói ánh lửa thiên lương và khát khao được làm người. Cái độc đáo của Nam Cao chính là ở chỗ tác giả đã để cho nhân vật Chí Phèo chênh vênh giữa hai bờ Thiện – Ác. Đằng sau bộ mặt dở người dở thú là nỗi đớn đau, vật vã của một kẻ sinh ra là người mà bị cự tuyệt quyền làm người. Trong cơn say, Chí Phèo cất tiếng chửi trời, chửi đời… Tiếng chửi của hắn như một thông điệp phát đi cầu mong có sự đáp lại nhưng cả làng Vũ Đại chẳng ai thèm chửi nhau với hắn. Rút cục, chỉ có ba con chó dữ và một thằng say rượu. Người ta coi hắn chẳng khác gì một con chó dại.
Những lúc tỉnh rượu, nỗi lo sợ xa xôi và sự cô đơn tràn ngập lòng hắn. Hắn thèm được làm hòa với mọi người biết bao! Mối tình bất chợt với Thị Nở có thể nói là món quà nhân ái mà Nam Cao ban tặng cho Chí Phèo. Tình yêu của Thị Nở đã hồi sinh Chí Phèo, đánh thức lương tri và khát vọng làm người của hắn. Lần đầu tiên trong đời, hắn sợ cô đơn và hắn muốn khóc khi nhận bát cháo hành từ tay Thị Nở. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, những âm thanh quen thuộc của cuộc sống vọng đến tai hắn và ngân vang trong lòng hắn, khiến hắn càng thèm được làm một con người bình thường như bao người khác và khấp khởi hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn.
Nhưng cánh cửa cuộc đời vừa mới hé mở đã bị đóng sập lại trước mặt Chí Phèo. Bà cô Thị Nở – đại diện cho dân làng Vũ Đại – đã dứt khoát không chấp nhận Chí Phèo. Từ hi vọng, Chí Phèo rơi xuống vực thẳm tuyệt vọng. Lần đầu tiên trong đời hắn ý thức sâu sắc về số phận bất hạnh của mình. Hắn lại đem rượu ra uống để mong cơn say làm vơi bớt khổ đau, tủi nhục nhưng khốn nỗi càng uống hắn càng tỉnh. Hắn thực sự muốn làm người nhưng cả làng Vũ Đại tẩy chay hắn, không ai coi hắn là người. Hắn cũng không thể tiếp tục làm quỷ dữ bởi đã ý thức sâu sắc về bi kịch đời mình.
Để giành lại sự sống cho tâm hồn, Chí Phèo buộc phải từ bỏ thể xác. Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống của một người lương thiện. Cái chết vật vã, đau đớn và câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện ? còn làm day dứt và ám ảnh lương tâm người đọc cho đến tận ngày nay.
Đó cũng là câu hỏi lớn của Nam Cao: Làm thế nào để con người được sống đích thực là con người trong cái xã hội tàn bạo ấy?
Với truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao đã đạt tới tầm cao của tư tưởng nhân đạo khi nhìn nhận và đánh giá người nông dân trước Cách mạng. Nhà văn không dừng ở hiện tượng bên ngoài mà đi sâu vào thể hiện bản chất bên trong của con người. Nam Cao cũng đã chứng tỏ bút lực già dặn của mình qua tài nghệ xây dựng hình tượng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Ý nghĩa xã hội của hình tượng Chí Phèo rất lớn và sức sống của nó cũng thật lâu dài. Có thể nói tác phẩm và nhân vật đã tôn vinh tên tuổi Nam Cao trong lịch sử văn chương của nước ta.
Nghị luận Chí Phèo (mẫu 2)
Khi nhận định về các tác phẩm của Nam Cao, Nguyễn Hoành Khung cho rằng: “Trong mảnh sáng tác về nông dân của Nam Cao, người đọc thường gặp những nhân vật xấu xí, thô lỗ cục cằn và những chuyện nhục nhã của họ. Chính vì thế mà một số người tỏ ra hoài nghi giá trị hiện thực và nhân đạo của ngòi bút Nam Cao, có biết đâu rằng, chính với đám nhân vật “có vấn để” đó mà cái nhìn hiện thực và quan điểm nhân đạo của nhà văn mới thể hiện rõ, đầy đủ nhất”.
Và nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao là một nhân vật “có vấn đề” như thế, nhưng chính những lời văn mà tác giả viết về nhân vật này và những bi kịch mày phải chịu đựng đã thể hiện được giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của tác phẩm mà Nam Cao muốn gửi gắm qua nhân vật này.
Chí Phèo có một tuổi thơ thật bất hạnh: Ngay từ khi chào đời, Chí Phèo đã là một đứa con hoang, bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ và không biết cha mẹ mình là ai. Chí lớn lên nhờ sự đùm bọc, cưu mang của dân làng. Lớn lên Chí đi ở hết nhà này đến nhà nọ. Cứ như thế, Chí lớn lên bình yên giữa những người dân nghèo khổ nhưng hiền lành. Chí cũng có ước mơ riêng của mình, đó là có một gia đình nho nhỏ “chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải”.
Đến năm hai mươi tuổi, Chí trở thành một chàng trai có vẻ đẹp toàn vẹn từ ngoại hình mạnh khỏe cho đến nội tâm hiền lành. Nhưng rồi Chí đi làm cho nhà Bá Kiến và cũng chỉ vì chuyện ghen tuông vớ vẩn Chí bị đẩy vào tù, sau bảy, tám năm biệt tích trở về làng giờ đây Chí Phèo đã hoàn toàn thay đổi từ ngoại hình cho đến tính cách.
Ngoại hình của Chí thật đáng sợ: cái đầu cạo trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen, hai mắt gườm gườm trông gớm chết. Ngoại hình ấy ẩn chứa một tính cách đã hoàn toàn thay đổi, không còn tính cách “lành như đất” nữa mà giờ đây hắn chuyên đi đập đầu, rạch mặt ăn vạ, hắn lấy rượu để bầu bạn với mình và rồi trong cơn say hắn đến nhà Bá Kiến để trả thù nhưng kết quả của cả hai lần là hắn đã bị Bá Kiến “ru ngủ” bằng rượu, thịt và tiền.
Và rồi từ đó, Chí rơi vào trạng thái mất phương hướng, không biết ai là kẻ thù của cuộc đời mình và lại tiếp tiếp tục rơi vào cái bẫy mà Bá Kiến đã giăng sẵn, hắn vào tù vì Bá Kiến và rồi khi ra tù lại tiếp tục biến mình thành tay sai cho chính kẻ thù của mình, còn gì nhục nhã hơn là điều đó.
Cứ thế, cuộc đời hắn trượt dài trong những bi kịch, hắn không làm gì ngoài việc rạch mặt, ăn vạ để đòi tiền, để đâm chém những ai không cùng phe cánh với cụ Bá. Cuộc đời hắn chìm trong cơn say, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say và đánh nhau trong cơn say, “hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đập vỡ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện”.
Cứ như thế đời hắn trượt dài, nhìn vào mặt hắn người ta không biết hắn bao nhiêu tuổi. Cuộc đời hắn đã xem như là bỏ đi, nhân hình bị hủy hoại, nhân tính bị xói mòn. Cả làng Vũ Đại đều tránh mặt hắn mỗi lần hắn đi qua. Ngay cả bản thân hắn cũng quên sự có mặt của hắn ở trên đời.
Nhưng rồi người nông dân bị lưu manh hóa ấy cuối cùng cũng đã thức tỉnh. Trong tâm hồn tưởng chừng như chai đá ấy của Chí vẫn còn le lói một ánh sáng của lương tâm, lương thiện chỉ cần có cơ hội thôi là sẽ bừng sáng. Và Nam Cao đã cho Chí một cơ hội để ánh sáng ấy có dịp bừng lên, đó là cho Chí được gặp gỡ với Thị Nở. Chính cuộc gặp gỡ ấy, sự chăm sóc ân cần của Thị cùng bát cháo hành nóng hổi nghi ngút khói đã làm sống dậy bản chất lương thiện của Chí.
Được Thị Nở chăm sóc, Chí Phèo rất ngạc nhiên vì xưa nay nào hắn có thấy ai tự cho ai cái gì, hắn phải dọa nạt hay cướp giật mới có. Lần đầu tiên khi tỉnh giấc, hắn bâng khuâng nghe tiếng chim hót, tiếng cười nói của những người đi chợ và cùng với đó là khát vọng được sống một cuộc sống khác, được hòa nhập cùng mọi người, họ sẽ nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Hắn tự đặt ra câu hỏi cho mình: hắn có thể làm bạn được sao lại chỉ gây thù? Thị Nở chính là người mà Chí đặt niềm tin vào, Chí tin Thị Nở sẽ là chiếc cầu nối giúp Chí trở về với cuộc sống đó.
Nhưng rồi, khát khao sống một cuộc sống lương thiện của hắn vừa mới được nhen nhóm thì đã bị dập tắt. Chiếc cầu nối ấy đã bỏ hắn mà đi chỉ vì lời nói của bà cô: “đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà lại phải lấy một thằng không cha, không mẹ chỉ biết rạch mặt ăn vạ”, bỏ lại Chí với nỗi đau khổ đến tột cùng, hắn đau xót nhận ra rằng sẽ chẳng còn chiếc cầu nào mang hắn về với cuộc sống của những người lương thiện nữa.
Những lời lẽ cuối cùng đã bộc lộ tất cả bi kịch nội tâm của Chí: “Tao muốn làm người lương thiện (…). Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!”.
Và cuối cùng, bi kịch đã biến thành thảm kịch. Tột đỉnh của sự khổ đau đã biến thành tột đỉnh của sự căm thù, uất hận. Chí thấy kẻ thù trước mắt cướp đi tình yêu của hắn chính là bà cô Thị Nở nhưng trong sâu thẳm tâm hồn có lẽ hắn vẫn ý thức được ai mới chính là kẻ thù gây nên một chuỗi dài bi kịch của cuộc đời mình.
Hắn xách dao đến nhà bà cô Thị Nở nhưng lại đi thẳng đến nhà Bá Kiến, Chí Phèo đã đâm chết Bá Kiến rồi tự kết liễu cuộc đời mình. Trong sự bế tắc đến tột cùng, Chí đã tự tìm ra lối thoát cho riêng mình, đó là cái chết, chết để kết thúc tất cả bi kịch của cuộc đời Chí.
Nhân vật Chí Phèo là nhân vật tiêu biểu cho số phận của người nông dân trong xã hội nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Nam Cao đã thể hiện tấm lòng yêu thương, trân trọng của mình đối với những người có số phận bất hạnh. Ở sâu thẳm trong tâm hồn họ chính là sự khát khao hạnh phúc, được yêu thương và sống một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Nghị luận Chí Phèo (mẫu 3)
“Chí Phèo” của Nam Cao là kiệt tác của văn học hiện thực phản ảnh đậm nét xã hội phong kiến đầy rẫy những tội ác và bất công, đồng thời khắc họa thành công hình ảnh người nông dân bị bần cùng hóa. Đọc những trang viết của Nam Cao, người đọc có thể mường tượng ra được bức tranh xã hội phong kiến nhiều ám ảnh.
Xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh nhân vật Chí Phèo – một người nông dân lương thiện nhưng bị xã hội chèn ép, chà đạp, đẩy đến bước đường cùng thành kẻ sát nhân. Nam Cao đã để cho nhân vật Chí Phèo xuất hiện ngay đầu tác phẩm bằng “tiếng chửi”. Một loạt tiếng chửi của Chí Phèo như mở màn một cuộc đời nhiều tăm tối của hắn “Hắn chửi trời, hắn chửi đất, hắn chửi cả làng Vũ Đại. Hắn chửi đứa nào đẻ ra hắn…”.
Chí Phèo sinh ra tại một cái lò gạch cũ, được người làng truyền tay nhau nuôi, đến khi hắn đi ở cho Bá Kiến. Bá Kiến vì ghen tuông mà đã đẩy Chí Phèo vào tù, nơi đó bắt đầu hình thành những oán hận và cả nỗi đau. Chí Phèo đã dần đánh mất đi bản thân, đánh mất đi sự lương thiện. Sau mấy năm ở tù, CHí Phèo về làng, trở thành một con người khác. Nam Cao đã khắc họa rõ từng đường nét trên khuôn mặt của Chí Phèo, như phản ảnh sự đau lòng của chế độ và sự tha hóa của một đời người. Chí Phèo xuất hiện “Cái đầu thì trọc lóc, răng cạo trắng hớn, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Hình ảnh người nông dân hiền lành đã biến mất sau những năm tháng ở tù.
Xã hội đã cướp đi nhân cách, bản tính lương thiện và cả ước muốn làm người của Chí Phèo. Hắn trở về từ nhà tù, biến thành một kẻ chuyên đi rạch mặt ăn vạ, hắn phá tan đi bao nhiêu gia đình ở làng Vũ Đại. Cả làng ai cũng sợ hắn, vì bộ mặt gớm ghiếc và hành động tàn bạo.
Cuộc sống của một con người thay đổi hoàn toàn, hắn lấy nghề rạch mặt, đâm thuê chém mướn làm nghề sống. Chí Phèo bị người làng xa lánh, hắn trở về làm cho nhà Bá Kiến. Lại một lần nữa người đọc thấy được sự bế tắc, bước đường cùng của Chí Phèo. Hắn lại trở về nơi ngày xưa đã đẩy hắn vào cảnh cơ cực như bây giờ. Có lẽ đây chính là sự bế tắc của người dân thấp cổ bé họng trong xã hội phong kiến.
Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng thành công nhân vật CHí Phèo. Đây là hình tượng điển hình cho sự tha hóa trong xã hội phong kiến, là sự bế tắc, cùng đường lạc lối.
Nhưng Nam Cao đã không để cuộc đời Chí Phèo dừng lại ở đó, tác giả đã khơi gợi sự khát thèm yêu thương, khát thèm cuộc sống như một con người nơi hắn. Tình huống truyện Chí Phèo gặp Thị Nở ở vườn chuối sau lần hắn uống rượu say khướt. Thị Nở xuất hiện với bát cháo hành đã khiến người đọc vẫn cảm thấy còn chút gì đó hi vọng cho một cuộc đời bình dị. Thị Nở xấu xí, thô kệch, nhưng lại là vết sáng trong cuộc đời tăm tối của CHí Phèo. Sự xuất hiện của Chí Phèo thực sự có ý nghĩa rất lớn đối với Chí Phèo, đánh thức lương tri, đánh thức bản tính lương thiện của hắn. “Bát cháo hành” là một chi tiết nghệ thuật giàu giá trị nhân văn, cho tình người còn lấp lánh giữa xã hội thối nát.\
Sau khi gặp gỡ với Thị Nở, hắn thấy cuộc đời ngoài kia thật tốt đẹp, nghe thấy những người đàn bà đi chợ đang nói chuyện. Hơn hết có một chi tiết, một suy nghĩ khiến người đọc chùng xuống “Hắn thấy già yếu, bệnh tật, và cô độc còn đáng sợ hơn cả đau ốm bệnh tật…hắn khát khao làm hòa với mọi người”. Có lẽ đã đến lúc hắn nhận ra cần một cuộc sống như mọi người, không phải rạch mặt ăn vạ nữa. Cuộc sống bình dị ấy nhưng với Chí lại quá xa vời.
Xã hội phong kiến nghiệt ngã, không để cho Chí Phèo được làm người lương thiện khi bà cô của Thị Nở xuất hiện. Bà cô phản đối chuyện Thị Nở và Chí Phèo, còn dùng những từ cay độc để mắng mỏ Chí Phèo. Bà cô là hiện thân của xã hội phong kiến, cự tuyệt khát khao làm người, quyết dồn Chí vào bước đường cùng. Chính điều này đã khiến cho Hắn đau, rơi vào tuyệt vọng và quyết tìm đến nhà Bá Kiến để giết Bá Kiến.
Hình ảnh ám ảnh người đọc là hình ảnh Chí Phèo giãy đành đạch, nằm giữa vũng máu ở sân nhà Bá Kiến. Hắn giết Bá Kiến và tự kết liễu cuộc đời mình. Trước khi chết Chí phèo còn hét lên “Ai cho tao làm người lương thiện”, xã hội này không cho, con người cũng không cho. Đúng là một bi kịch quá đau lòng đối với người nông dân trong xã hội đầy rẫy bất công.
Nam Cao với ngòi bút sâu sắc đã xây dựng nhân vật điển hình trong xã hội điển hình như kéo người đọc về với thời kỳ đau thương của đất nước ta hồi đó. Nghệ thuật đặc tả tính cách, hành động đã khiến cho truyện ngắn thêm sinh động, hấp dẫn.
Nghị luận Chí Phèo (mẫu 4)
“Chí Phèo” chỉ là một truyện ngắn và là một truyện ngắn sáng tác trong những ngày đầu mới cầm bút của Nam Cao viết về đề tài nông dân, nhưng tác phẩm chính là sự tổng hợp, kết tinh đỉnh cao của ngòi bút nhà văn. Có thể nói rằng, “Chí Phèo” là một bản án cáo trạng đanh thép đối với một xã hội phong kiến đầy bất công đã đẩy người nông dân vào con đường bần cùng hóa trước Cách mạng. Đồng thời, tác phẩm cũng là một câu chuyện chứa đựng nhiều ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Trước hết, tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao đã khắc họa tấn bi kịch của người nông dân trước Cách mạng. Trong tác phẩm này, Nam Cao không đi vào nạn sưu thuế hay thiên tai dịch họa mà nhà văn lại hướng đến một phương diện khác, đó là hình tượng người nông dân cố cùng bị xã hội phá hủy về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính và bị phủ nhận tư cách làm người. Nỗi thống khổ ghê gớm của Chí Phèo chính là bị cướp đi hình hài của một con người, bị đẩy ra khỏi xã hội loài người và phải sống kiếp sống đớn đau như thú vật. Chí từ một anh canh điền lương thiện khỏe mạnh, vì hầu hạ bà Ba, khiến cụ Bá ghen ghét đẩy vào lao tù. Từ đây, con đường tha hóa của người nông dân chất phác bắt đầu như trượt dốc không phanh. Ra khỏi tù, người ta không nhận ra thằng Chí Phèo trước đây nữa mà thay vào đó là một hình hài quỷ dữ: “Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm […]. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!”
Với ngòi bút hiện thực, nhà văn Nam Cao đã chỉ ra rằng, để tồn tại thì những người nông dân hiền lành khốn khổ đã dần trở nên lưu manh hóa và bất cần. Họ không chỉ bị tha hóa về nhân hình mà còn bị tha hóa cả về nhân tính.
Ở tù về, Chí như biến thành một con quỷ dữ, chuyên rạch mặt ăn vạ, la làng ầm ĩ. Trở thành tay sai đòi nợ cho Bá Kiến: “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện”. Không những thế, những hành động dã man ấy hắn đều làm trong lúc say: “ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, […] đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say”. “Những cơn say của hắn tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang” khiến cho hắn chưa bao giờ tỉnh táo để ý thức về những việc mình đã và đang làm.
Chính vì trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại” mà tất cả mọi người đều cố tránh xa hắn, ngay cả khi hắn “kêu làng, không bao giờ người ta vội đến” bởi đã quá quen với cảnh hắn la làng ăn vạ. Không ai thèm chửi nhau với hắn, không ai công nhận hắn, ngay cả Thị Nở – người phụ nữ “xấu ma chê quỷ hờn” cũng không cần hắn. Khi ấy, hắn mới tỉnh ngộ nhận ra bi kịch thê lương của mình: bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Hắn kêu lên: “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa”. Đó là những câu hỏi đầy cay đắng và không có lời giải đáp. Lương thiện của con người là ở trong chính mỗi người chúng ta. Vậy mà Chí lại phải đi “đòi” lương thiện. Chính cái xã hội vô nhân tính đã cướp mất lương thiện và còn khốn nạn hơn, ngay cả cái quyền được làm một con người tử tế cũng bị xã hội ấy tước đoạt mất.
Qua tấn bi kịch của Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã cho người đọc thấy một hiện thực xót xa về cuộc sống và số phận của người nông dân trước Cách mạng. Đó chính là cuộc sống bế tắc và bần cùng, người nông dân từ tha hóa đã dẫn đến lưu manh hóa. Phản ánh bi kịch ấy, nhà văn Nam Cao cũng chỉ rõ nguyên nhân là mâu thuẫn xã hội sâu sắc đã đẩy người nông dân đến bước đường cùng.
Trong tác phẩm, một bên, nhà văn xây dựng hình tượng giai cấp phong kiến thống trị mâu thuẫn với một bên là người nông dân lương thiện nghèo đói. Hình tượng điển hình cho giai cấp phong kiến thống trị ở nông thôn chính là nhân vật Bá Kiến. Chân dung lão cường hào cáo già Bá Kiến dần dần hiện rõ trong tác phẩm những nét tính cách được thể hiện hết sức sinh động, đầy ấn tượng. Đó là cái lối quát “rất sang”, lối nói ngọt nhạt và nhất là “cái cười Tào Tháo”. Chính sách cai trị của hắn rất khôn ngoan, rảo hoạt: “mềm nắn, rắn buông”, “bám thằng có tóc, ai bám thằng trọc đầu”, “chỉ bóp đến nửa chừng” và “hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng rồi lại vớt nó lên để nó đền ơn”, dùng thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò, bởi “Khi cần đến chỉ cho nó dăm hào uống rượu là có thể sai nó đến tác oai tác quái bất cứ anh nào không nghe mình”… Tất cả đã cho thấy tâm địa thâm độc tới ghê sợ của Bá Kiến, lợi dụng cái ác để trục lợi cho mình và dùng cái ác để làm nên cái ác lớn hơn.
Trong khi giai cấp thống trị lọc lõi khôn đời thì người nông dân thấp cổ bé họng lại lâm vào đường cùng, trở thành nạn nhân bị bóc lột và bị đẩy vào con đường tha hóa đến tội nghiệp.
Bị đẩy vào tù một cách oan ức, ra tù, Chí muốn tìm đến nhà Bá Kiến để tính sổ. Vậy mà từ chỗ hung hăng đòi “liều chết với bố con” lão Bá Kiến, chỉ sau mấy câu ngọt nhạt và mấy hào lẻ của cụ Bá, Chí Phèo đã trở thành một tên tay sai mới của lão. Xây dựng nên hình tượng nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã cho người đọc thấy được số phận, tình cảnh của người nông dân trước Cách mạng bị xã hội phong kiến đầy bất công đẩy vào con đường tha hóa, bị tước hết giá trị và tư cách của một con người. Mâu thuẫn giữa người nông dân và giai cấp địa chủ ấy được đẩy lên cao trào khi mà Chí đã nhận ra người đã đẩy mình đến cảnh tha hóa chính là Bá Kiến và người cần giết cũng chính là lão ta.
Tuy Chí Phèo đã thức tỉnh được tình cảnh tha hóa của mình và nhận diện được kẻ thù của mình nhưng lúc đó đã là quá muộn. Đây cũng chính là một bi kịch đau đớn của người nông dân và của một con người. “Chí Phèo” là một bản cáo trạng đanh thép đối với xã hội phong kiến bất công đã đẩy con người ta và con đường tha hóa cùng cực nhất. Tuy vậy, nhưng tác phẩm cũng là một minh chứng về tình yêu thương và sự thức tỉnh lương tri của con người.
Tình cờ gặp Thị Nở trong một đêm say đã khiến Chí trở thành một con người khác. Sáng hôm sau tỉnh dậy, Chí cảm thấy bao nhiêu điều mới mẻ: thấy tiếng chim hót vui vẻ, tiếng huyên náo của những người đàn bà đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Hắn thấy lòng “bâng khuâng”, “mơ hồ buồn” và lần đầu tiên cảm thấy sợ tuổi già, đói rết, ốm đau và cô độc. Được Thị Nở chăm sóc, thương yêu, hắn bỗng nhớ lại mơ ước về một mái ấm gia đình “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ ở nhà dệt vải” thời trai trẻ. Có thể thấy rằng, dù Thị Nở là người đàn bà dở hơi, xấu ma chê quỷ hờn nhưng lại là người không hề chê bai Chí, là người săn sóc, quan tâm đến anh ta một cách dịu dàng và ân cần nhất. Chính tình yêu ấy làm cho “Xấu mà e lệ thì cũng đáng yêu”, làm cho con quỷ dữ bao năm đã biến mất, thay vào đó là một con người khao khát lương thiện, khao khát làm người chân chính.
“Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” như một lời cầu hôn của Chí với Thị Nở. Bày tỏ mong muốn ấy một cách rất chân thực, giản dị mà chất phác đúng kiểu một anh nông dân, Chí mong muốn được làm lại từ đầu, được sống một cuộc đời khác, cuộc đời bình dị giống như bao người mà Thị Nở chính là cầu nối, là người vun trồng cùng hắn xây dựng. Phải nói rằng, tác giả đã khéo lựa chọn những chi tiết đắt giá để qua đó thể hiện ý nghĩa của sự hồi sinh và khẳng định sức sống của thiên lương, lương thiện trong mỗi con người. Phát hiện và miêu tả tài tình sự thức tỉnh lương tri của Chí Phèo chính là một thành công nghệ thuật đặc sắc của Nam Cao.
Thế nhưng, điều đáng nói là con người đã biết hoàn lương nhưng xã hội ấy lại không thể nào chấp nhận lại họ được nữa. Chí Phèo vừa mới mơ ước về một gia đình thì đã bị bà cô Thị Nở tạt ngay cho một gáo nước lạnh. Chí hiểu rằng, mình có cố gắng làm sao đi nữa thì cũng không thể xóa hết những tội lỗi mà mình gây ra, không thể nào mà trở về hòa nhập với cuộc sống được nữa. Ý thức được điều này, cũng là ý thức được kẻ gây ra bi kịch cho mình, Chí đã tìm đến nhà Bá Kiến kết liễu lão ta và cả chính mình. Điều này là tất yếu bởi lẽ, cánh cửa hoàn lương của Chí đã đóng sầm trước mắt. Để giải quyết sự bế tắc đó, Chí chỉ còn cách là kết thúc cuộc đời mình và kẻ gây nên tội ác. Cái chết ấy là cái chết của một bi kịch đau đớn trước ngưỡng cửa trở về làm người, là tiếng kêu cứu về quyền làm người.
Với tác phẩm “Chí Phèo”, Nam Cao không chỉ phơi bày bộ mặt xã hội đen tối, bất công mà nhà văn còn đồng cảm với những bi kịch khổ đau của người nông dân thấp cổ bé họng trước Cách mạng. Đồng thời nhà văn cũng kịp thời phát hiện và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của con người và khao khát thay đổi thực tại để vươn đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Nghị luận Chí Phèo (mẫu 5)
Chí Phèo là câu chuyện về đoạn cuối cuộc đời của một con người trong xã hội thực dân phong kiến diễn ra và được ghi lại bởi Nam Cao (1917 – 1951), mội ngòi bút bậc thầy cách nay đã hơn sáu mươi năm.
Mở đầu tác phẩm Chí Phèo xuất hiện trong tư thế khật khưỡng của kẻ say rượu vừa đi vừa chửi. Hắn chửi vụng tất cả. Chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi những đứa khổng chửi nhau với hắn. Đây chính là lí do để ngay phần tiếp theo, tác giả kể về lai lịch của Chí. Hắn vốn là đứa trẻ từ khi mới đẻ ra đã bị bỏ rơi trong cái lò gạch bỏ hoang, được người làng nhặt về nuôi, đi ở cho nhiều nhà khác nhau, cuối cùng đến năm 20 tuổi thì về làm canh điền cho Lí Kiến. Có thể vì ghen tuông, nghi cho bà ba vốn tính lẳng lơ có tư tình với anh canh điền khoẻ mạnh, Bí Kiến cho người bắt Chí giải lên huyện và đẩy vào lao tù.
Ngay sau khi ở tù về, Chí đã uống rượu say khướt rồi cầm vỏ chai đến cổng nhà Bá Kiến (lúc này Bá Kiến đã là Bá bộ) chửi Lí Cường con trai Bá Kiến xông ra hành hung Chí, được thể Chí đã dùng mảnh chai rạch mặt ăn vạ. Đang thế, Bá Kiến xuất hiện, lên giọng mắng Lí Cường rồi dùng lời ngon ngọt để an ủi Chí, lại mời Chí vào nhà tiếp đãi cơm rượu hậu hĩnh, cho Chí một đồng bạc đem về Chí vô cùng hả hê. Từ đó, khi nào hết tiền hắn ,lại đến ăn vòi. Lần thứ hai, Chí đến nhà Bá Kiến xin đi ờ tù lần nữa với cách lập luận đi tù còn có cơm ăn, ở làng mảnh đất cắm dùi cũng không có mà cái ăn cũng không, Bá Kiến lợi dùng cơ hội này nhờ hắn đi đòi nợ Đội Tảo 50 đồng và hứa sẽ, có vườn cho Chí. Sau khi Chí hoàn thành việc được giao, Bá Kiến cho vài hào uống rượu và cắt cho hắn 5 sào vườn ở bãi sông. Lúc này Chí mới 27, 28 tuổi. Cũng bắt đầu từ đây, Chí trở thành kẻ đâm thuê chém mướn, một công cụ đắc lực của Bá Kiến nhằm ức hiếp dân lành và thanh toán những kẻ có máu mặt trong làng nhưng không cùng vây cánh. Chí Phèo đã thực sự trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”, ai ai cũng đều sợ hắn và tránh mặt hắn.
Một lần trong buổi tối sáng trăng, sau khi được uống rượu với Tự Lãng, hắn trở về túp lều ven sông định bước xuống tắm, tình cờ nhìn thấy Thị Nở đang nằm ngủ. Thị là người nghèo rót mồng tơi, xấu ma chê quỷ hờn lại ngẩn ngơ như người đần trong cổ tích. Họ đã ăn nằm với nhau và đánh thức tình cảm bình thường cùng mong muốn làm một người bình thường trong Chí. Nhờ thứ tình cảm này mà bao nhiêu mơ ước hiền lành thời trai trẻ bỗng thức đậy, hắn muớn có một tổ ấm gia đình bình dị. Rôi Chí bị cảm. Thị Nở đã ân cần chăm sóc, nấu cháo hành cho hắn ăn giải cảm… Tưởng được bền lâu, nào ngờ chỉ được vẻn vẹn năm ngày, đến ngày thứ sáu, bà cô thị Nở đi buôn chuyến trở về. Bà đã xỉ vả mắng nhiếc thị vì đã biết được chuyện giữa Thị với Chí Phèo. Do đấy, Thị Nở đến mằng Chí Phèo và bỏ mặc Chí trong tuyệt vọng. Thế rồi Chí khóc, Chí lại tìm đến rượu, Khi say hắn dắt dao vào lưng, nói là đi đâm chết “nó”, tức đâm chết hai cô cháu nhà Thị Nở. Nhưng bước chân khật khưởng của Chí cứ thế đến nhà Bá Kiến. Hắn xông vào Bá Kiến, vung dao đòi làm người lương thiện. Trong cơn tỉnh say cuối cùng này. Chí đã vung dao đâm chết Bá Kiến và cũng tự kết liễu cuộc đời mình.
Nghe tin hai cái chết, trong lúc bao người, báo kẻ hả hê, Thị Nở nghĩ đến Chí “sao có lúc nó hiền như đất và nhớ lại những lúc ăn nằm với hắn”. Thị lo mình có chửa. Khép lại câu chuyện là hình ảnh thị nhìn nhanh xuống bụng và “đột nhiên thị thấy cái lò gạch thoáng hiện, xa nhà cửa và vắng bóng người qua lại”
Đây là một truyện ngắn mà dung lượng hiện thực được phản ánh trong trạng thái dồn nén, chứa nhiều mâu thuẫn, với nhiều nhân vật, có nhiều lớp thời gian…, mang tầm vóc của một tiểu thuyết. Có thể phân tích theo vấn đề ý nghĩa nhân sinh của truyện, có thể phân tích theo tuyến nhân vật, hoặc cũng có phân tích từng mối quan hệ giữa nhân vật chính là Chí Phèo với làng Vũ Đại và một số nhân vật có quan hệ trực tiếp (Bá Kiến, thị Nở). Đâu đi theo con đường nào cũng cần làm nổi bật rõ nghệ, thuật xây dựng tình huống, nghệ thuật miêu tả nhân vật và ngôn ngữ truyện. Sức mạnh của truyện ngắn trước hết là chi tiết. Cách phân tích dưới đây cố gắng đi theo tình huống này.
Làng Vũ Đại, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng. Về kết cấu và ngôn ngữ truyện. Trước nhất phải kể đến kết cấu. Nếu xét về kết cấu hình tượng, truyện Chí Phèo cũng có một cốt truyện có thể kể được nhưng điều đáng nói ở đây là kết cấu văn hán truyện. Nam Cao đã rất có ý thức sáng tạo và huy động kết cấu tham gia vào việc xây dựng nhân vật cũng như đắp bổi thêm bề dày, bề sâu các lớp nghĩa cho tác phẩm. Thứ nhất, Nam Cao sử dụng kết cấu vòng tròn. Đó là sự trở lại chi tiết “cái lò gạch bỏ hoang” ở phần kết truyện hình ảnh cái lò gạch bỏ hoang nơi Chí bị bỏ rơi lúc mới đẻ ở phần đầu truyện được nhà văn sử dụng để cho Thị Nở đột nhiên thấy thoáng hiện ra khi nhìn xuống bụng, sợ nhỡ may mình có chửa. Kết truyện nay có sức gợi rất lớn. Điểu này gì nếu không phải là khả năng tái sinh của Chí Phèo? Chừng nào còn tồn tại cái xã hội kiểu làng Vũ Đại thì chừng đó sẽ còn nảy nòi ra loại người như Chí. Môi trường này cần được thay đổi. Nếu như đặt vấn đề hãy cứu lấy nhân cách con người thì rõ ràng phải bắt đầu từ việc cứu lấy môi trường đã huỷ hoại nhân cách. Thứ hai, các thành, phẩn lời trần thuật được xáo trộn, lắp ghép, đan xen không luôn theo trình tự tuyến tính của cốt truyện. Nam Cao bắt đầu bằng hình ảnh Chí khật khưỡng say và vừa đi vừa chửi; Chân dung nhân vật bước đầu hiện ra với những đường nét thật ấn tượng, buộc người đọc chú ý và ham mê theo dõi ngay lập tức.
Về yếu tố ngôn ngữ truyện có nhiều điều có thể bán được nhưng ở đây chỉ xin đơn cử một cách thức sử dụng ngôn ngữ hết sức sáng tạo và độc đáo kiểu Nam Cao. Ông đã đan xen, trộn lẫn lời nhân vật và lời người kể truyện, nhiều đơn vị lời văn có thể là của nhân vật vừa là của người kể chuyện. Điều này có tác dụng rất lớn cho phép nhà văn soi quét, lách sâu vào thẻ giới nội tâm rất phức tạp và tinh tế của nhân vật. Nhờ vậy chân dung nhân vật hiện ra hết sức chân thực và sống động. Chỉ cần đơn cử đoạn mở đầu truyện là đã thấy thủ pháp nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ đan xen, hoà trộn như thế’ nào. Đây là một kĩ thuật của ngôn ngữ tiểu thuyết hiện đại mà không phải nhà văn cùng thời nào với Nam Cao cũng đã biết và sử dụng. Hiểu như vậy mới thấy sự cách tân và đóng góp vào kĩ thuật tiểu thuyết của Nam Cao thực sự là không nhỏ và có nhiều ý nghĩa cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
Tóm lại, chỉ với tác phẩm Chí Phèo đã dù thấy Nam Cao trong buổi mạt kỳ của chủ nghĩa hiện thực phê phán nước ta đã có công đưa nó lên một tầm cao mới về cả nội dung và nghệ thuật trước khi nó im tiếng.
Nghị luận Chí Phèo (mẫu 6)
Chỉ là một truyện ngắn, lại là truyện ngắn sáng tác sớm của Nam Cao về đề tài nông dân, nhưng Chí Phèo là sự tổng hợp, sự kết tinh của ngòi bút Nam Cat về đề tài này. Nếu như Nam Cao có thể được coi là “nhà văn của nông dân” , cùng với Ngô Tất Tố, thì trước hết vì ông có Chí Phèo.
Khác với truyện ngắn cùng đề tài của tác giả, Chí Phèo có phạm vi hiện thực được phản ánh trải ra cả bề rộng không gian (một làng quê) và cả bề dài thời gian. Có thể nói, làng Vũ Đại trong truyện chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội nông thôn Việt Nam đương thời.
Những năm 1940 – 1945, nông thôn vẫn là một đề tài lớn trong văn xuôi khu vực hợp pháp. Các nhà văn đã đi vào đề tài này theo chiều hướng khác nhau. Trước hết là đi vào phong tục tập quán dân quê, sự lục đục giữa vợ cả và vợ lẽ, mẹ chồng và nàng dâu, dì ghẻ và con chồng, anh và em, chú bác, cô cậu và những đứa cháu bên nội, bên ngoại.
Trên bối cảnh chung của văn học hiện thực thời kì 1940 – 1945, Chí Phèo là một hiện tượng đột xuất. Giống như Tắt đèn, Bước đường cùng, Giông tố…. thời Mặt trận dân chủ, Chí Phèo cũng là “bức tranh xã hội rộng lớn với những xung đột giai cấp quyết liệt”. Tác phẩm gây ấn tượng đậm nét về tính đầy đặn, đa dạng nhiều màu sắc của bức tranh về đời sống xã hội nông thôn.
Song, dựng lên bức tranh xã hội ở nông thôn, Nam Cao trước hết tập trung nổi bật mối xung đột giai cấp đối kháng giữa bọn địa chủ cường hào thống trị và người nông dân bị áp bức bóc lột. Tức là, cũng như tác giả Tắt đèn, Bước cùng…. Nam Cao đã phản ánh hiện thực nông thôn trên bình diện mâu thuẫn giai cấp.
Chí Phèo của Nam Cao đã xây dựng một hình tượng điển hình khá hoàn chỉnh về giai cấp phong kiến thống trị ở nông thôn: Bá Kiến.
Chân dung lão cường hào cáo già Bá Kiến dần dần hiện rõ trong tác phẩm những nét tính cách được thể hiện hết sức sinh động, đầy ấn tượng. Đó là khái quát “rất sang” (“bắt đầu bao giờ cụ cũng quát để thử dây thần kinh mọi người”), lối nói ngọt nhạt, và nhất là “cái cười Tào Tháo” (“cụ vẫn tự phụ hơn đời cái cười Tào Tháo ấy”) – tất cả đều cho thấy bản chất gian hùng của lão cường hào “khôn róc đời” này. Nam Cao cũng hé cho thấy tư cách nhem nhuốc của “cụ tiên chỉ”: đó là thói ghen tuông thảm hại của lão cường hào háo sắc mà sợ vợ – lão cay đắng nhận ra mình “già yếu quá ” mà “bà Tư” thì “cứ trẻ, cứ phây phây”, “nhìn thì thích nhưng mà tưng tức lạ… khác gì nhai miếng bò lựt sựt khi rụng gần hết răng”. Đó là chuyện lão gỡ gạc tồi tệ đối với người vợ lính vắng chồng… Và bổ sung vào đó, để cho sự thối nát của nhà “cụ Bá” được hoàn chỉnh, còn có “Bà Tư” quỷ cái “thường gọi canh điền lên bóp chân mà lại “cứ bóp lên trên, trên nữa”… Nhà văn chỉ kể qua, nhẹ nhàng, – tuy không kém thâm thúy, chứ không sa đà trong việc soi mói đời tư thối tha của lão cường hào.
Ông tập trung ngòi bút vào việc soi sáng bản chất xã hội của nhân vật, chủ yếu thể hiện trong mối quan hệ với người nông dân bị áp bức. Đoạn độc thoại nội tâm rất mực sinh động của “cụ tiên chỉ làng Vũ Đại” về cái “nghề tổng lí”cho thấy Nam Cao chẳng những soi thấu tim đen của nhân vật mà còn tỏ ra hiểu rất sâu các mối quan hệ xã hội ở nông thôn. Bá Kiến đã lặng lẽ nghiền ngẫm về nghề thống trị, rút ra từ bốn đời tổng lí những phương châm, thủ đoạn thống trị khôn ngoan: “mềm nắn, rắn buông”, “bám thằng có tóc, ai bám thằng trọc đầu”, “thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân”, “chỉ bóp đến nửa chừng”, “hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn”… Còn đây là chính sách dùng người của lão: “không có những thằng đầu bò thì lấy ai trị những thằng đầu bò”, “thu dụng những thằng bạt mạng không sợ chết và không sợ đi tù. Những thằng ấy chính là những thằng được việc. Khi cần đến chỉ cho nó dăm hào uống rượu là có thể sai nó đến tác oai tác quái bất cứ anh nào không nghe mình (…). có chúng nó sinh chuyện thì mới có dịp mà ăn…. “… Tất cả đều nhằm sao cho vừa bóp nặn được nhiều nhất, vừa giữ chắc cái ghế thống trị. Tâm địa thâm độc tới ghê sợ của Bá Kiến còn thể hiện trong việc hắn nhẹ nhàng “khích” Chí Phèo đòi nợ đội Tảo, đẩy những kẻ sẵn sàng đâm chém ấy vào chỗ chém nhau, để kẻ nào sống “cũng có lợi cụ cả”! Bá Kiến thật là một con hổ biết cười!.
Vạch khổ cho người nông dân bị áp bức bóc lột, Nam Cao không đi vào nan sưu thuế, nạn chiếm đoạt ruộng đất, nạn tô tức, quan tham lại những, thiên tai địch họa…. ở Chí Phèo và nhiều truyện nữa, nhà văn đi vào một phương khác: người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính, do đó, bị phủ nhận giá trị, tư cách làm người. Nỗi thống khổ ghê gớm của Chí Phèo không phải ở chỗ tất cả cuộc đời người nông dân cố cùng này chỉ là một không: không nhà, không cửa, không cha không mẹ, không họ hàng thân thích không tấc đất cắm dùi, cả đời không hề biết đến một bàn tay chăm sóc của đàn bà nếu không gặp Thị Nở…, mà chính là ở chỗ anh đã bị xã hội rạch nát cả bộ mặt người, cướp đi linh hồn người, để bị loại ra khỏi xã hội loài người, phải sống kiếp sống tối tăm của thú vật. Mở đầu truyện là hình ảnh hết sức sống động, độc đáo của Chí Phèo khật khưỡng vừa đi vừa chửi. Nhưng đằng sau cái chân dung gã say rượu chửi lảm nhảm được vẽ bằng những nét bút tưởng đâu là kí họa gây cười ấy, nếu đọc kĩ còn có thể thấy một cái gì như là sự vật vã của một linh hồn đau đớn, tuyệt vọng. Không, tiếng chửi của Chí Phèo không hẳn là bâng quơ. Hắn từ “chửi trời” đến “chửi đời” rồi “chửi ngay tất cả làng Vũ Đại…” .Và hắn bỗng tức tối khi thấy “không ai lên tiếng cả”… Trong cơn say hắn vẫn cảm thấy tuy mơ hồ mà thấm thía “nông nỗi” khốn khổ của thân phận. Đó là “nông nỗi” không có người nào chịu chửi lại hắn! Có nghĩa là tất cả mọi người đã dứt khoát không coi hắn là người. Chửi lại hắn nghĩa là còn thừa nhận hắn là người, là còn bằng lòng giao tiếp, đối thoại với hắn. Chí Phèo chửi cả làng với… hi vọng được người nào đó chửi lại. Những tín hiệu yêu cầu giao tiếp phát đi liên tục đó chỉ gặp sự im lặng đáng sợ. Và vẫn còn lại một mình Chí Phèo trong sa mạc cô đơn: Hắn cứ “chửi rồi lại nghe”, “chỉ có ba con chó dữ một thằng say rượu!…
Cảnh mở đầu đột ngột của thiên truyện đó chẳng những đã giới thiệu hấp dẫn tính cách độc đáo của nhân vật mà còn hé thấy tình trạng bi đát của một số phận. Chí Phèo trước hết là một hiện tượng có tính quy luật, tính phổ biến, sản phẩm của tình trạng áp bức bóc lột tàn tệ ở nông thôn Việt Nam trước đây. Đây là hiện tượng những người nông dân lao động bị đè nén thái quá đã chống trả lại để tồn tại bằng con đường lưu manh. Bá Kiến đẩy anh canh điền hiền lành vào tù; nhà tù thực dân – chỗ dựa tin cậy của bọn phong kiến trong việc đàn áp nông dân – đã tiếp tay lão cường hào để giết chết phần người trong con người Chí, biến Chí thành Chí Phèo, biến một người nông dân lương thiện thành một con quỷ dữ. Với ngòi bút hiện thực tỉnh táo ông vạch ra rằng, những người nông khốn khổ phải giành lấy sự tồn tại sinh vật bằng việc bán cả nhân phẩm ấy, đã trở thành lực lượng phá hoại mù quáng, dễ dàng bị bọn thống trị thâm độc lợi dụng, Vì thế mà Chí Phèo từ chỗ hung hăng đến nhà Bá Kiến, tuyên bố “liều chết với bố con” lão, chỉ cần mấy câu nói ngọt xớt, chuỗi cười Tào Tháo và mấy hào chỉ, đã trở thành tên tay sai mới của lão. Hiện tượng mỉa mai, đau xót rất phổ biến và có tính quy luật mà ngòi bút phân tích xã hội sâu sắc Nam Cao đã vạch ra.
Giá trị điển hình, sức mạnh tố cáo to lớn của hình tượng Chí Phèo trước hết là ở chỗ làm nổi bật lên cái hiện tượng có tính quy luật vẫn hằng diễn ra ở xã hội nông thôn đầy bất công và tội ác đương thời đó. Vấn đề của Chí Phèo là vấn đề nông dân – với ý nghĩa đó, vẫn có thể nói Chí Phèo là một hình tượng điển hình về nông dân.
Truyện ban đầu được tác giả đặt tên là Cái lò gạch cũ; hình ảnh cái lò gạch cũ được xuất hiện ở phần mở đầu và cả khi kết thúc truyện. Rõ ràng đó là ý nghệ thuật của Nam Cao. Cái lò gạch cũ như là một biểu tượng về sự hiện tất yếu của hiện tượng Chí Phèo, gắn liền với tuyến chủ đề chính của tác phẩm.
Câu chuyện mối tình Chí Phèo – Thị Nở quả là hấp dẫn đặc biệt. Song mặc dù giọng văn bông lơn, có lúc như chế giễu, mặc dù đối với một số người, đó là sự hấp dẫn của loại truyện tình bờ hụi của hạng nữa người ngợm, ngưu tầm ngưu mã tầm mã, “đôi lứa xứng đôi”, thì đây vẫn thật sự là truyện có một nội dung hết sức nghiêm túc, chứa đựng một tư tưởng nhân đạo thật mới mẻ, độc đáo đem lại cho tác phẩm một tầm vóc bất ngờ.
Ban đầu, Chí Phèo đến với Thị Nở một cách rất… Chí Phèo. Trong một đêm “rười rượi những trăng”, có những tầu chuối nằm ngửa ưỡn cong cong lên hứng lấy trăng xanh rười rợi như là ướt nước, thỉnh thoảng bị gió lay lại giãy lên đành như là “hứng tình”, Chí Phèo rất say và cảm thấy “bứt rứt”, “ngứa ngáy” da thịt, đã xông tới người đàn bà khốn khổ “dại dột đã nằm ềnh ệch mà ngủ ngay gần nhà hắn”. Khi Thị Nở hốt hoảng kêu làng, thì “cái thằng trời đánh không chết ấy lại kêu to hơn, “vừa kêu vừa dằn người đàn bà xuống”! Trâng no, lì lợm đến thế là cùng! Nhưng điều kì diệu đã xảy ra là, nếu như ban đầu, Thị Nở chỉ khơi dậy bản năng giống đực ở gã đàn ông Chí Phèo, thì sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và lòng yêu thương mộc mạc mà chân thành của đàn bà khốn khổ ấy đã làm thức dậy bản chất lương thiện của người lao động trong Chí Phèo. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh hồn Chí Phèo sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở, là một đoạn tuyệt bút, đầy chất thơ và tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc bất ngờ của ngòi bút Nam Cao.
Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy muộn và lòng “bâng khuâng”, “mơ hồ buồn”. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, Chí Phèo mới lại nghe thấy tiếng chim hót vui vẻ, tiếng cười nói của những người đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ nể chèo đuổi cá…Những âm thanh quen thuộc trong cuộc sống lao động xung quanh ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay bỗng trở nên vang động sâu xa trong lòng Chí Phèo, trở thành những tiếng gọi tha thiết của cuộc sống vẳng đến bên tai lần đầu tiên tỉnh táo của anh. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã lóe sáng như một tia chớp trong cuộc đời tăm tối dằng dặc của Chí Phèo. Dưới ánh sáng của tia chớp ấy, Chí Phèo bỗng nhìn rõ tất cả cuộc đời mình: những ngày xưa “rất xa xôi ” đã từng “ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng! Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Cái hiện tại đáng buồn: “già mà vẫn cô độc”, cái tương lai còn đáng buồn hơn: “đói rét và ốm đau và cô độc cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Nếu như bao nhiêu năm nay, Chí Phèo “bao giờ cũng say”, “say tận”, “có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ rằng có hắn ở đời”, thì hôm nay lần đầu tiên Chí Phèo tỉnh táo, tỉnh táo để tự ý thức về thân phận. Trước đi Chí Phèo sống và hành động hoàn toàn vô thức, hắn không thể biết và không cần biết hắn là gì và đã làm những gì: “hắn không biết rằng hắn là con quỷ .. của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng (…). Hắn biết đâu vì làm tất cả những việc ấy trong khi người hắn say… Giờ đây, lần đầu tiên, Chí Phèo nhận ra sự hiện hữu của mình, đối mặt với chính mình, và đồng thời, cũng lần đầu tiên, nhận ra sự bế tắc tuyệt vọng của thân phận mình. Khi thấy Thị Ni bưng cháo hành đến, hắn “rất ngạc nhiên” và hết sức xúc động. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”. Hắn ăn bát cháo từ tay Thị Nở và bỗng nhận thấy rằng cháo hành ăn rất ngon. Bởi vì hương vị cháo hành này chính là hương vị của tình yêu thương chân thành, của hạnh phúc giản dị, mà có thật, lần đầu tiên đến với Chí Phèo. Lần đầu tiên, Chí Phèo mắt “như ươn ướt”, “ôi sau mà hắn hiền, ai dám bảo đó là thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt của mình”. Trở lại là anh canh điền trong trắng năm xưa cảm thấy bị xúc phạm khi bị cái bà ba “quỷ cái” gọi lên bóp chân, trở lại anh nông dân lương thiện từng mơ ước cuộc sống gia đình hạnh phúc hết sức bình dị khiêm nhường trong lao động… “Đó là cái bản tính của hắn ngày thường bị lấp đi… “
Như vây là, lòng yêu thương, cái tình người chân thành đã làm sống lại trong Chí Phèo cái bản chất đẹp đẽ của người nông dân lao động, bao lâu nay bị cho lấp, vùi dập nhưng vẫn không tắt. Bọn cường hào và nhà tù thực dân, nói rộng ra là cả cái xã hội tàn bạo ấy, ra sức giết chết cái “bản tính tốt” ấy của anh “Trần trụi giữa bầy sói”, anh không thể hiền lành, trong trắng, mà để tồn tại anh phải cướp giật, ăn vạ, đâm chém. Muốn thế phải liều và mạnh, những thứ ấy Chí Phèo tìm ở rượu. Và Chí Phèo luôn luôn say, ” hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm” – xét cho cùng, Chí Phèo không chịu trách nhiệm về những hành động của mình: linh hồn của anh đã bị cướp đi rồi.
Nhưng hôm nay, tình yêu đã thức tỉnh anh và linh hồn anh đã trở về. Anh thấy “thèm lương thiện”, “muốn làm hòa với mọi người biết bao!”, Anh như rưng rưng và bẽn lẽn trong sự phục sinh của linh hồn đó. Anh mong được nhận vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”. Tình của Thị Nở chẳng những đã thức tĩnh anh mà còn hé mở cho anh con đường trở lại làm người, trở lại cuộc đời, và anh hồi hộp hy vọng.
Đã hơn một lần, Nam Cao viết về những mối tình của những kẻ bị cả xã hội miệt thị, lăng nhục độc ác: Lang Rận – mụ Lợi, Đức – Nhi, Chí Phèo – Thị Nở… Tuy vẫn giữ giọng văn khách quan, hài hước, nhà văn đã dứt khoát đứng ra làm luật sư cãi trắng án cho những con người bất hạnh, bị mọi người hắt hủi đó, nhất là khi họ bị ném vào tình thế nhục nhã, trở thành cái đích cho những mũi tên chế giễu độc ác của người đời đầy thành kiến mu muội. Ông đã đanh thép bênh quyền được yêu của họ và khẳng định tính chính đáng của những mối tình như thế. Có gì là không chính đáng nếu như những con người trong khi bị cả xã hội xua đuổi ấy đã đến với nhau, tìm thấy ở nhau sự giao cảm, chia sẻ nỗi lòng? Vì nếu tình yêu chân chính là tình yêu làm nhân đạo hóa con người, nâng cao sống, thì đã có mấy lần tình yêu có tác dụng nhân đạo hóa kì diệu, cảm động như mối tình Thị Nở – Chí Phèo? Chẳng phải tình yêu thương tuy đơn giản, có phần thô lỗ của người đàn bà xấu xí ấy đã gọi dậy linh hồn người trong con quỷ dữ Chí Phèo, đưa hắn từ cõi địa ngục trở về cõi người đó sao? Chẳng phải một sự hóa giải thần bí nào mà chỉ là một tình yêu rất mực trần tục, nhưng là tình yêu đích thực con người, thật lành mạnh, khỏe khoắn. Mô típ nghệ thuật này được xử lí bằng một tư tưởng nhân đạo lớn lao và một bút lực phi thường, chỉ có Nam Cao.
Tư tưởng nhân đạo và hút lực phi thường đó còn thể hiện ở đoạn văn miêu tả tấn bi kịch tinh thần của Chí Phèo. Truyện ngắn đầy hấp dẫn này càng về cuối càng đặc biệt hấp dẫn; không phải chỉ vì cốt truyện, tình tiết đầy tính kịch, biến hóa khôn lường, mà còn vì tầm tư tưởng càng ngày càng nâng cao một cách bất ngờ của tác phẩm.
Nhiều người cũng nói đến Chí Phèo như là một bi kịch số phận, song nếu hiểu cho chặt chẽ, chính xác thì chỉ từ nhân vật này đã thức tỉnh linh hồn, khao khát trở lại làm người nhưng bị cự tuyệt lạnh lùng, thì chỉ đến khi đó, Chí Phèo mới thật sự rơi vào tình thế bi kịch: bi kịch của con người bị từ chối không được làm người.
Khi hiểu ra rằng xã hội không công nhận mình, Chí Phèo vật vã đau đớn. Hắn lại uống, nhưng điều lạ là, hôm nay “hắn càng uống càng tỉnh ra”. Đúng hơn là tuy say, trong tâm thức Chí Phèo lúc này vẫn có một điềm tĩnh: nỗi đau khôn cùng về thân phận, và “hắn ôm mặt khóc rưng rức”. Rồi như để chạy trốn bản thân, chạy trốn nỗi đau, hắn “lại uống… lại uống… đến say mềm người”. Rồi hắn đi với một con dao và vừa đi vừa chửi… như mọi lần. Nhưng lại hoàn toàn khác mọi lần: hôm nay, Chí Phèo quằn quại đau đớn vì tuyệt vọng, càng thấm thía hơn bao giờ tội ác của kẻ thù, đã đến thẳng trước Bá Kiến “trợn mắt, chỉ tay vào mặt” lão, dõng dạc đòi quyền làm người, đòi lại bộ mặt người đã bị vằm nát của mình. Kẻ chết vì ý thức nhân phẩm đã trở về, anh không thể chấp nhận trở lại kiếp sống thú vật được nữa. Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống, chết trong tâm trạng bi kịch đau đớn. Thế là, trước đây, để bám lại sự sống, Chí Phèo phải từ bỏ nhân phẩm, bán linh hồn cho quỷ; giờ đây, ý thức nhân phẩm thức dậy, linh hồn trở về. Nhiều người nghi ngờ tấm lòng của Nam Cao đối với nông dân, vì thấy người nông dân của nhà văn phần nhiều xấu xa dữ tợn. Vậy mà chính ở những người khốn khổ có bộ mặt và tính cách không mấy “đáng yêu” đó, nhiều khi ý thức nhân phẩm còn mạnh hơn cả cái chết. Lão Hạc bề ngoài dường như lẩm cẩm, gàn dở nhưng lão đã lặng lẽ tìm đến cái chết để giữ trọn lòng tự trọng trong cảnh cùng đường (Lão Hạc). Lang Rận cũng tìm đến cái chết vì không chịu nổi điều nhục nhã đang chờ ông ta hôm sau (Lang Rận) và ở đây là Chí Phèo?
Chí Phèo đã chết quằn quại trên vũng máu trong niềm đau thương vô hạn, khao khát lớn lao, thiêng liêng là được làm người lương thiện đã không thực hiện được. Lời nói cuối cùng của Chí Phèo, vừa đanh thép, chất chứa phẫn nộ vừa mang sắc thái triết học và âm điệu bi thống đầy ám ảnh, làm người đời sững sờ và day dứt không thôi…”Ai cho tao lương thiện?”. Làm thế nào để con người được sống cuộc sống con người? Đó là “một câu hỏi lớn không lời đáp chẳng những Bá Kiến không thể hiểu mà xã hội khi ấy cũng chưa thể trả lời Câu hỏi ấy được đặt ra một cách bức thiết, day dứt trong hầu như toàn bộ sáng tác Nam Cao ước cách mạng. Và đặt ra bằng một tài năng lớn, độc đáo, khiến cho nhiều sáng tác của Nam Cao – trước hết là Chí Phèo – thuộc vào những trang hay nhất của nền văn xuôi Việt Nam.
Nghị luận Chí Phèo (mẫu 7)
“Khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang sách của Nam Cao, người ta mới thấy đây là hiện thân đầy đủ nhất cho những gì gọi là cùng khổ của người dân cày trong một xã hội thuộc địa: bị dày đạp, cào xé, hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình.” (Nguyễn Đăng Mạnh). Người ta vẫn coi Chí Phèo như một hiện tượng lạ của văn học và đời sống, một sáng tạo đặc biệt của Nam Cao mà qua đó, bao lớp hiện thực được lật dở, bao tầng tư tưởng được cày xới.
“Chí Phèo” thật sự đã đưa tên tuổi của Trần Hữu Tri chính thức trở thành Nam Cao. Vốn là một nhà văn hiện thực đến sau, bước vào làng văn khi mà mảnh đất về người nông dân đã được lật xới nhiều lần, Nam Cao vẫn cày được những đường cày thật đẹp và nâng tác phẩm của mình trở thành tuyệt tác. Tôi cho rằng “Chí Phèo” là tác phẩm Nam Cao viết hay và sâu sắc nhất về người nông dân bởi tính hiện thực và tư tưởng nhà văn gửi trong đó.
Đi theo cách nhà văn muốn dẫn dắt người đọc, Nam Cao đã đẩy Chí Phèo ra giữa sân khấu cuộc đời với trạng thái say và chửi – một trạng thái đầy ấn tượng và ám ảnh: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng vậy, cứ rượu xong là hắn chửi.” Hắn – cái cách mà Nam Cao gọi Chí Phèo – là một kẻ đang đằm mình trong men rượu và đối thoại với đời bằng tiếng chửi. Tiếng chửi có lớp có lang, có gần có xa, từ chửi trời, hắn chửi đời, rồi chửi sang cả dân làng Vũ Đại, chửi đứa nào không chửi nhau với hắn, và sau cùng là chửi “đứa chết mẹ nào đã đẻ ra hắn”. Tiếng chửi như đã trở thành quy luật sống của một kẻ say, Nam Cao đã cho ta thấy trạng thái tồn tại cụ thể nhất của nhân vật, thấy được chất lưu manh trong con người hắn, và phần nào thấy được bi kịch bị cự tuyệt của Chí Phèo. Trong tiếng chửi dường như có sự cô độc. Dân làng Vũ Đại không ai ra điều, đáp lại hắn chỉ là tiếng sủa của ba con chó dữ. Chí Phèo bị gạch tên ra khỏi xã hội chăng? Vì đâu mà hắn bị cả xã hội ghê sợ và lảng tránh? Những câu hỏi gợi mở Nam Cao đặt ra từ đầu truyện đã cho ta lần bước tìm hiểu về nhân vật…
Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí “chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”. Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: “Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Thế nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã và không sao gượng dậy được. Đó là lúc Chí bị Bá Kiến đẩy vào tù chỉ vì một cơn ghen bạo chúa, bi kịch lưu manh hóa cũng bắt đầu từ đó.
Chí ra tù, mang theo sự biến đổi nhân hình và nhân tính đến méo mó dị dạng. Từ một anh canh điền khỏe mạnh, Chí trở nên là một đứa “đặc như thằng săng đá”, với “cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng, cái mặt câng câng, con mắt gườm gườm. Người ta tưởng như một con quỷ dữ về làng. Chuỗi ngày sau khi ra tù, hắn ngụp lặn trong trạng thái tinh thần say miên man. Ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say. Đau đớn hơn, sự tha hóa không chỉ hiện lên thành hình, nó còn đang dần gặm nhấm từ bên trong khi mà Chí đã tự mình bán rẻ linh hồn cho Bá Kiến. Trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm được quy luật của sự sinh tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được. Phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Vậy là chỉ sau những lời mời dụ ngọt nhạt của tên gian hùng lọc lõi như Bá Kiến, Chí đã trở thành một tay đi đòi nợ thuê, chém giết thuê. “Hắn đâu biết hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao người dân lương thiện”. Chí Phèo đã thực hiện đúng mưu đồ của cha con nhà Bá Kiến: “Lấy thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò”. Chất Người trong hắn dường như đã cạn kiệt, linh hồn quỷ xâm chiếm và tàn phá hắn.
Nhưng cũng chính từ bi kịch ấy mà ta nhìn thấy bản chất, bộ mặt của cả một xã hội – một xã hội vô nhân với những những con người cạn sạch tính người, một xã hội mà Vũ Trọng Phụng gọi là “chó đểu”. Ở đó, có những tên cường hào ác bá như Bá Kiến nắm mọi quyền lực, có thể tuyệt đường sống của người dân lương thiện bất cứ lúc nào, có nhà tù thực dân bắt vào một người lương thiện và thả ra một con quỷ dữ, có những người như dân làng Vũ Đại khước từ sự dung nạp và chấp nhận một người như Chí Phèo.
Tưởng như Chí đã trượt dài và lún sâu trong tấn bi kịch đời mình, nhưng Nam Cao vẫn đủ tin tưởng và trái tim nhà văn vẫn rất nhân đạo khi “cố tìm mà hiểu” chất Người trong tâm hồn của một kẻ mà phần Con đã chiếm thế. Đó là lúc Chí gặp Thị Nở – một người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn của làng Vũ Đại. Qua cái đêm ăn nằm như vợ chồng với thị, Chí tỉnh dậy và bao nhiêu sự hồi sinh đã được đánh thức. Hồi sinh ý thức về không gian, thời gian, về tình cảm và tiếng nói con người. Lần đầu tiên trong cuộc đời, Chí nghe thấy “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá. Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”. Cũng lần đầu, hắn ý thức được về tuổi tác của mình, về hiện tại “đã già mà vẫn còn cô độc”, về quá khứ với ước mơ lành thiện khi xưa, về tương lai với “đói rét, ốm đau và cô độc”. Con người ấy lần đầu có những cảm giác rất người, thức dậy cả về lương tri và lương tâm. Hắn biết lo, biết sợ, biết xúc động rưng rưng trước bát cháo hành tỏa nồng hơi ấm, biết ăn năn hối cải về tội ác của mình. Chính bàn tay của một người phụ nữ có dòng dõi mả hủi đã cứu đỡ hắn ra khỏi bờ vực tha hóa, để rồi không chỉ bộc lộ bản chất lương thiện vẫn luôn sẵn có trong con người, Chí Phèo còn trỗi dậy cả khao khát hoàn lương – trở về với xã hội loài người. Hắn tin rằng “Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”; “Thị có thể làm hòa với hắn sao mọi người lại không thể”. Chưa bao giờ, ước muốn được quay trở về làm người lương thiện lại mãnh liệt đến thế. Chính đôi mắt tinh tế và tấm lòng cảm thương của Nam Cao đã nhìn thấy mầm thiện của một con người vốn sống lương thiện, bị xã hội tàn ác vùi dập và đày đọa.
Nhưng hiện thực vẫn là hiện thực. Ngòi bút trung thành với hiện thực của Nam Cao đã không chối bỏ một sự thật khác, rằng sống trong xã hội đầy rẫy những định kiến cổ hủ lạc hậu, con người không thể sống yên ổn theo đúng nghĩa. Một lần nữa, Chí Phèo rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người bởi định kiến của bà cô Thị Nở. Người đàn bà ấy đã dõng dạc tuyên bố rằng: “Trai làng đã chết hết hay sao mà đi đâm đầu lấy một thằng không cha, lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”. Cái loa của định kiến làng xã đã đưa bước chân Thị Nở đến từ chối thẳng thừng khát vọng hoàn lương và hạnh phúc của Chí Phèo. Giây phút nhân vật nửa tin nửa ngờ, nửa say nửa tỉnh, cố níu mà không thể giữ, bàng hoàng đến đau đớn đã biến Chí Phèo trở thành một kẻ thật sự tội nghiệp và đáng thương. Thị Nở bước đi, cánh cửa dẫn lối về xã hội loài người đóng sầm ngay trước mặt. Chí Phèo tìm đến tên kẻ thù lớn nhất của đời mình để trả thù và cũng kết liễu luôn đời mình. Chết là một kết cục bi thảm đau đớn, nhưng là lẽ tất yếu khi sống trong xã hội đầy nhơ nhuốc ấy. Không được dung nạp vào xã hội chung, Chí Phèo cũng không thể trở lại làm quỷ dữ, bởi lương tri và lương tâm đã trở về. Chí có chết mới là cách giải quyết tốt nhất, dù nó thật đau đớn. Đó là cái chết bảo toàn nhân phẩm, cái chết cảnh tỉnh cho cả một xã hội, để rồi ngày nay, tiếng hỏi “Ai cho tao lương thiện?” vẫn không ngừng vang vọng và ám ảnh.
Để làm nên thành công của tác phẩm trong việc xây dựng nhân vật, không thể không kể đến nghệ thuật phân tích tâm lý bậc thầy của Nam Cao, nghệ thuật kết cấu linh hoạt theo dòng tâm lý và sử dụng những đoạn độc thại, đối thoại phù hợp. Ngòi bút của Nam Cao đã điển hình hóa một kiểu người, một số phận trong xã hội, để ngà nay Chí Phèo vẫn là cái tên đầu tiên khi người ta nhớ về Nam Cao.
Nghị luận Chí Phèo (mẫu 8)
Chỉ là một truyện ngắn, lại là truyện ngắn sáng tác sớm của Nam Cao về đề tài nông dân, nhưng Chí Phèo là sự tổng hợp, sự kết tinh của ngòi bút Nam Cat về đề tài này. Nếu như Nam Cao có thể được coi là “nhà văn của nông dân” , cùng với Ngô Tất Tố, thì trước hết vì ông có Chí Phèo. Khác với truyện ngắn cùng đề tài của tác giả, Chí Phèo có phạm vi hiện thực được phản ánh trải ra cả bề rộng không gian (một làng quê) và cả bề dài thời gian. Có thể nói, làng Vũ Đại trong truyện chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội nông thôn Việt Nam đương thời.
Những năm 1940 – 1945, nông thôn vẫn là một đề tài lớn trong văn xuôi khu vực hợp pháp. Các nhà văn đã đi vào đề tài này theo chiều hướng khác nhau. Trước hết là đi vào phong tục tập quán dân quê, sự lục đục giữa vợ cả và vợ lẽ, mẹ chồng và nàng dâu, dì ghẻ và con chồng, anh và em, chú bác, cô cậu và những đứa cháu bên nội, bên ngoại. Trên bối cảnh chung của văn học hiện thực thời kì 1940 – 1945, Chí Phèo là một hiện tượng đột xuất. Giông như Tắt đèn, Bước đường cùng, Giông tố…. thời Mặt trận dân chủ, Chí Phèo cũng là “bức tranh xã hội rộng lớn với những xung đột giai cấp quyết liệt”. Tác phẩm gây ấn tượng đậm nét về tính đầy đặn, đa dạng nhiều màu sắc của bức tranh về đời sông xã hội nông thôn.
Song, dựng lên bức tranh xã hội ở nông thôn, Nam Cao trước hết tập trung nổi bật mối xung đột giai cấp đối kháng giữa bọn địa chủ cường hào thống trị và người nông dân bị áp bức bóc lột. Tức là, cũng như tác giả Tắt đèn, Bước cùng…. Nam Cao đã phản ánh hiện thực nông thôn trên bình diện mâu thuẫn giai cấp. Chí Phèo của Nam Cao đã xây dựng một hình tượng điển hình khá hoàn chỉnh về giai cấp phong kiến thống trị ở nông thôn: Bá Kiến.
Chân dung lão cường hào cáo già Bá Kiến dần dần hiện rõ trong tác phẩm những nét tính cách được thể hiện hết sức sinh động, đầy ấn tượng. Đó là khái quát “rất sang” (“bắt đầu bao giờ cụ cũng quát để thử dây thần kinh mọi người”), lối nói ngọt nhạt, và nhất là “cái cười Tào Tháo” (“cụ vẫn tự phụ hơn đời cái cười Tào Tháo ấy”) – tất cả đều cho thấy bản chất gian hùng của lão cường hào “khôn róc đời” này. Nam Cao cũng hé cho thấy tư cách nhem nhuốc của “cụ tiên chỉ”: đó là thói ghen tuông thảm hại của lão cường hào háo sắc mà sợ vợ – lão cay đắng nhận ra mình “già yếu quá ” mà “bà Tư” thì “cứ trẻ, cứ phây phây”, “nhìn thì thích nhưng mà tưng tức lạ… khác gì nhai miếng bò lựt sựt khi rụng gần hết răng”. Đó là chuyện lão gỡ gạc tồi tệ đối với người vợ lính vắng chồng… Và bổ sung vào đó, để cho sự thối nát của nhà “cụ Bá” được hoàn chỉnh, còn có “Bà Tư” quỷ cái “thường gọi canh điền lên bóp chân mà lại “cứ bóp lên trên, trên nữa”… Nhà văn chỉ kể qua, nhẹ nhàng, – tuy không kém thâm thúy, chứ không sa đà trong việc soi mói đời tư thối tha của lão cường hào.
Ông tập ưung ngòi bút vào việc soi sáng bản chất xã hội của nhân vật, chủ yếu thể hiện trong mối quan hệ với người nông dân bị áp bức. Đoạn độc thoại nội tâm rất mực sinh động của “cụ tiên chỉ làng Vũ Đại” về cái “nghề tổng lí”cho thấy Nam Cao chẳng những soi thấu tim đen của nhân vật mà còn tỏ ra hiểu rất sâu các mối quan hệ xã hội ở nông thôn. Bá Kiến đã lặng lẽ nghiền ngẫm về nghề thống trị, rút ra từ bốn đời tổng lí những phương châm, thủ đoạn thống trị khôn ngoan: “mềm nắn, rắn buông”, “bám thằng có tóc, ai bám thằng trọc đầu”, “thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân”, “chỉ bóp đến nửa chừng”, “hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn”… Còn đây là chính sách dùng người của lão: “không có những thằng đầu bò thì lấy ai trị những thằng đầu bò”, “thu dụng những thằng bạt mạng không sợ chết và không sợ đi tù.
Những thằng ấy chính là những thằng được việc. Khi cần đến chỉ cho nó dăm hào uống rượu là có thể sai nó đến tác oai tác quái bất cứ anh nào không nghe mình (…). có chúng nó sinh chuyện thì mới có dịp mà ăn…. “… Tất cả đều nhằm sao cho vừa bóp nặn được nhiều nhất, vừa giữ chắc cái ghế thống trị. Tâm địa thâm độc tới ghê sợ của Bá Kiến còn thể hiện trong việc hắn nhẹ nhàng “khích” Chí Phèo đòi nợ đội Tảo, đẩy những kẻ sẵn sàng đâm chém ấy vào chỗ chém nhau, để kẻ nào sống “cũng có lợi cụ cả”! Bá Kiến thật là một con hổ biết cười!.
Vạch khổ cho người nông dân bị áp bức bóc lột, Nam Cao không đi vào nan sưu thuế, nạn chiếm đoạt ruộng đất, nạn tô tức, quan tham lại những, thiên tai địch họa…. ở Chí Phèo và nhiều truyện nữa, nhà văn đi vào một phương khác: người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính, do đó, bị phủ nhận giá trị, tư cách làm người. Nỗi thống khổ ghê gớm của Chí Phèo không phải ở chỗ tất cả cuộc đời người nông dân cố cùng này chỉ là một không: không nhà, không cửa, không cha không mẹ, không họ hàng thân thích không tấc đất cắm dùi, cả đời không hề biết đến một bàn tay chăm sóc của đàn bà nếu không gặp Thị Nở…, mà chính là ở chỗ anh đã bị xã hội rạch nát cả bộ mặt người, cướp đi linh hồn người, để bị loại ra khỏi xã hội loài người, phải sống kiếp sống tối tăm của thú vật. Mở đầu truyện là hình ảnh hết sức sống động, độc đáo của Chí Phèo khật khưỡng vừa đi vừa chửi.
Nhưng đằng sau cái chân dung gã say rượu chửi lảm nhảm được vẽ bằng những nét bút tưởng đâu là kí họa gây cười ấy, nếu đọc kĩ còn có thể thấy một cái gì như là sự vật vã của một linh hồn đau đớn, tuyệt vọng. Không, tiếng chửi của Chí Phèo không hẳn là bâng quơ. Hắn từ “chửi trời” đến “chửi đời” rồi “chửi ngay tất cả làng Vũ Đại…” .Và hắn bỗng tức tối khi thấy “không ai lên tiếng cả”… Trong cơn say hắn vẫn cảm thấy tuy mơ hồ mà thấm thìa “nông nỗi” khôn khổ của thân phận. Đó là “nông nỗi” không có người nào chịu chửi lại hắn! Có nghĩa là tất cả mọi người đã dứt khoát không coi hắn là người. Chửi lại hắn nghĩa là còn thừa nhận hắn là người, là còn bằng lòng giao tiếp, đối thoại với hắn. Chí Phèo chửi cả làng với… hi vọng được người nào đó chửi lại. Những tín hiệu yêu cầu giao tiếp phát đi liên tục đó chỉ gặp sự im lặng đáng sợ. Và vẫn còn lại một mình Chí Phèo trong sa mạc cô đơn: Hắn cứ “chửi rồi lại nghe”, “chỉ có ba con chó dữ một thằng say rượu!…
Cảnh mở đầu đột ngột của thiên truyện đó chẳng những đã giới thiệu hấp dẫn tính cách độc đáo của nhân vật mà còn hé thấy tình trạng bi đát của một số phận. Chí Phèo trước hết là một hiện tượng có tính quy luật, tính phổ biến, sản phẩm của tình trạng áp bức bóc lột tàn tệ ở nông thôn Việt Nam trước đây. Đây là hiện tượng những người nông dân lao động bị đè nén thái quá đã chống trả lại để tồn tại bằng con đường lưu manh. Bá Kiến đẩy anh canh điền hiền lành vào tù; nhà tù thực dân – chỗ dựa tin cậy của bọn phong kiến trong việc đàn áp nông dân – đã tiếp tay lão cường hào để giết chết phần người trong con người Chí, biến Chí thành Chí Phèo, biến một người nông dân lương thiện thành một con quỷ dữ.
Với ngòi bút hiện thực tỉnh táo ông vạch ra rằng, những người nông khốn khổ phải giành lấy sự tồn tại sinh vật bằng việc bán cả nhân phẩm ấy, đã trở thành lực lượng phá hoại mù quáng, dễ dàng bị bọn thống trị thâm độc lợi dụng, Vì thế mà Chí Phèo từ chỗ hung hăng đến nhà Bá Kiến, tuyên bố “liều chết với bố con” lão, chỉ cần mấy câu nói ngọt xớt, chuỗi cười Tào Tháo và mấy hào chỉ, đã trở thành tên tay sai mới của lão. Hiện tượng mỉa mai, đau xót rất phổ biến và có tính quy luật mà ngòi bút phân tích xã hội sâu sắc Nam Cao đã vạch ra.
Giá trị điển hình, sức mạnh tố eáo to lớn của hình tượng Chí Phèo trước hết là ở chỗ làm nổi bật lên cái hiện tượng có tính quy luật vẫn hằng diễn ra ở xã hội nông thôn đầy bất công và tội ác đương thời đó. Vấn đề của Chí Phèo là vấn đề nông dân – với ý nghĩa đó, vẫn có thể nói Chí Phèo là một hình tượng điển hình về nông dân. Truyện ban đầu được tác giả đặt tên là Cái lò gạch cũ; hình ảnh cái lò gạch cũ được xuất hiện ở phần mở đầu và cả khi kết thúc truyện. Rõ ràng đó là ý nghệ thuật của Nam Cao. Cái lò gạch cũ như là một biểu tượng về sự hiện tất yếu của hiện tượng Chí Phèo, gắn liền với tuyến chủ đề chính của tác phẩm.
Câu chuyện mối tình Chí Phèo – Thị Nở quả là hấp dẫn đặc biệt. Song mặc dù giọng văn bông lơn, có lúc như chế giễu, mặc dù đối với một số người, đó là sự hấp dẫn của loại truyện tình bờ hụi của hạng nữa người ngợm, ngưu tầm ngưu mã tầm mã, “đôi lứa xứng đôi”, thì đây vẫn thật sự là truyện có một nội dung hết sức nghiêm túc, chứa đựng một tư tưởng nhân đạo thật mới mẻ, độc đáo đem lại cho tác phẩm một tầm vóc bất ngờ.
Ban đầu, Chí Phèo đến với Thị Nở một cách rất… Chí Phèo. Trong một đêm “rười rượi những trăng”, có những tầu chuối nằm ngửa ưỡn cong cong lên hứng lấy trăng xanh rười rợi như là ướt nước, thỉnh thoảng bị gió lay lại giãy lên đành như là “hứng tình”, Chí Phèo rất say và cảm thấy “bứt rứt”, “ngứa ngáy” da thịt, đã xông tới người đàn bà khốn khổ “dại dột đã nằm ềnh ệch mà ngủ ngay gần nhà hắn”. Khi Thị Nở hốt hoảng kêu làng, thì “cái thằng trời đánh không chết ấy lại kêu to hơn, “vừa kêu vừa dằn người đàn bà xuống”! Trâng no, lì lợm đến thế là cùng! Nhưng điều kì diệu đã xảy ra là, nếu như ban đầu, Thị Nở chỉ khơi dậy bản năng giống đực ở gã đàn ông Chí Phèo, thì sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và lòng yêu thương mộc mạc mà chân thành của đàn bà khốn khổ ấy đã làm thức dậy bản chất lương thiện của người lao động trong Chí Phèo. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh hồn Chí Phèo sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở, là một đoạn tuyệt bút, đầy chất thơ và tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc bất ngờ cùa ngòi bút Nam Cao.
Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy muộn và lòng “bâng khuâng”, “mơ hồ buồn”. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, Chí Phèo mới lại nghe thấy tiếng chim hót vui vẻ, tiếng cười nói của những người đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ nể chèo đuổi cá…Những âm thanh quen thuộc trong cuộc sống lao động xung quanh ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay bỗng trở nên vang động sâu xa trong lòng Chí Phèo, trở thành những tiếng gọi tha thiết của cuộc sống vẳng đến bên tai lần đầu tiên tỉnh táo của anh. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã lóe sáng như một tia chớp trong cuộc đời tăm tối dằng dặc của Chí Phèo. Dưới ánh sáng của tia chớp ấy, Chí Phèo bỗng nhìn rõ tất cả cuộc đời mình: những ngày xưa “rất xa xôi ” đã từng “ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng! Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”.
Cái hiện tại đáng buồn: “già mà vẫn cô độc”, cái tương lai còn đáng buồn hơn: “đói rét và ốm đau và cô độc cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Nếu như bao nhiêu năm nay, Chí Phèo “bao giờ cũng say”, “say tận”, “có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ rằng có hắn ở đời”, thì hôm nay lần đầu tiên Chí Phèo tỉnh táo, tỉnh táo để tự ý thức về thân phận. Trước đi Chí Phèo sống và hành động hoàn toàn vô thức, hắn không thể biết và không cần biết hắn là gì và đã làm những gì: “hắn không biết rằng hắn là con quỷ .. của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng (…). Hắn biết đâu vì làm tất cả những việc ấy trong khi người hắn say… Giờ đây, lần đầu tiên, Chí Phèo nhận ra sự hiện hữu của mình, đối mặt với chính mình, và đồng thời, cũng lần đầu tiên, nhận ra sự bế tắc tuyệt vọng của thân phận mình. Khi thấy Thị Ni bưng cháo hành đến, hắn “rất ngạc nhiên” và hết sức xúc động. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”.
Hắn ăn bát cháo từ tay Thị Nở và bỗng nhận thấy rằng cháo hành ăn rất ngon. Bởi vì hương vị cháo hành này chính là hương vị của tình yêu thương chân thành, của hạnh phúc giản dị, mà có thật, lần đầu tiên đến với Chí Phèo. Lần đầu tiên, Chí Phèo mắt “như ươn ướt”, “ôi sau mà hắn hiền, ai dám bảo đó là thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt của mình”. Trở lại là anh canh điền trong trắng năm xưa cảm thây bị xúc phạm khi bị cái bà ba “quỷ cái” gọi lên bóp chân, trở lại anh nông dân lương thiện từng mơ ước cuộc sống gia đình hạnh phúc hết sức bình dị khiêm nhường trong lao động… “Đó là cái bản tính của hắn ngày thường bị lấp đi… “
Như vây là, lòng yêu thương, cái tình người chân thành đã làm sống lại trong Chí Phèo cái bản chất đẹp đẽ của người nông dân lao động, bao lâu nay bị cho lấp, vùi dập nhưng vẫn không tắt. Bọn cường hào và nhà tù thực dân, nói rộng ra là cả cái xã hội tàn bạo ấy, ra sức giết chết cái “bản tính tốt” ấy của anh “Trần trụi giữa bầy sói”, anh không thể hiền lành, trong trắng, mà để tồn tại anh phải cướp giật, ăn vạ, đâm chém. Muốn thế phải liều và mạnh, những thứ ấy Chí Phèo tìm ở rượu. Và Chí Phèo luôn luôn say, ” hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm” – xét cho cùng, Chí Phèo không chịu trách nhiệm về những hành động của mình: linh hồn của anh đã bị cướp đi rồi.
Nhưng hôm nay, tình yêu đã thức tỉnh anh và linh hồn anh đã trở về. Anh thấy “thèm lương thiện”, “muốn làm hòa với mọi người biết bao!”, Anh như rưng rưng và bẽn lẽn trong sự phục sinh của linh hồn đó. Anh mong được nhận vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”. Tình của Thị Nở chẳng những đã thức tĩnh anh mà còn hé mở cho anh con đường trở lại làm người, trở lại cuộc đời, và anh hồi hộp hy vọng.
Đã hơn một lần, Nam Cao viết về những mối tình của những kẻ bị cả xã hội miệt thị, lăng nhục độc ác: Lang Rận – mụ Lợi, Đức – Nhi, Chí Phèo – Thị Nở… Tuy vẫn giữ giọng văn khách quan, hài hước, nhà văn đã dứt khoát đứng ra làm luật sư cãi trắng án cho những con người bất hạnh, bị mọi người hắt hủi đó, nhất là khi họ bị ném vào tình thế nhục nhã, trở thành cái đích cho những mũi tên chế giễu độc ác của người đời đầy thành kiến mu muội. Ông đã đanh thép bênh quyền được yêu của họ và khẳng định tính chính đáng của những mối tình như thế. Có gì là không chính đáng nếu như những con người trong khi bị cả xã hội xua đuổi ấy đã đến với nhau, tìm thấy ở nhau sự giao cảm, chia sẻ nỗi lòng?
Vì nếu tình yêu chân chính là tình yêu làm nhân đạo hóa con người, nâng cao sống, thì đã có mấy lần tình yêu có tác dụng nhân đạo hóa kì diệu, cảm động như mối tình Thị Nở – Chí Phèo? Chẳng phải tình yêu thương tuy đơn giản, có phần thô lỗ của người đàn bà xấu xí ấy đã gọi dậy linh hồn người trong con quỷ dữ Chí Phèo, đưa hắn từ cõi địa ngục trở về cõi người đó sao? Chẳng phải một sự hóa giải thần bí nào mà chỉ là một tình yêu rất mực trần tục, nhưng là tình yêu đích thực con người, thật lành mạnh, khỏe khoắn. Mô típ nghệ thuật này được xử lí bằng một tư tưởng nhân đạo lớn lao và một bút lực phi thường, chỉ có Nam Cao.
Tư tưởng nhân đạo và hút lực phi thường đó còn thể hiện ở đoạn văn miêu tả tấn bi kịch tinh thần của Chí Phèo. Truyện ngắn đầy hấp dẫn này càng về cuối càng đặc biệt hấp dẫn; không phải chỉ vì cốt truyện, tình tiết đầy tính kịch, biến hóa khôn lường, mà còn vì tầm tư tưởng càng ngày càng nâng cao một cách bất ngờ của tác phẩm. Nhiều người cũng nói đến Chí Phèo như là một bi kịch số phận, song nếu hiểu cho chặt chẽ, chính xác thì chỉ từ nhân vật này đã thức tỉnh linh hồn, khao khát trở lại làm người nhưng bị cự tuyệt lạnh lùng, thì chỉ đến khi đó, Chí Phèo mới thật sự rơi vào tình thế bi kịch: bi kịch của con người bị từ chối không được làm người.
Khi hiểu ra rằng xã hội không công nhận mình, Chí Phèo vật vã đau đớn. Hắn lại uống, nhưng điều lạ là, hôm nay “hắn càng uống càng tỉnh ra”. Đúng hơn là tuy say, trong tâm thức Chí Phèo lúc này vẫn có một điềm tỉnh: nỗi đau khôn cùng về thân phận, và “hắn ôm mặt khóc rưng rức”. Rồi như để chạy trốn bản thân, chạy trốn nổi đau, hắn “lại uống… lại uống… đến say mềm người”. Rồi hắn đi với một con dao và vừa đi vừa chửi… như mọi lần. Nhưng lại hoàn toàn khác mọi lần: hôm nay, Chí Phèo quằn quại đau đớn vì tuyệt vọng, càng thấm thía hơn bao giờ tội ác của kẻ thù, đã đến thẳng trước Bá Kiến “trợn mắt, chỉ tay vào mặt” lão, dõng dạc đòi quyền làm người, đòi lại bộ mặt người đã bị vằm nát của mình. Kẻ chết vì ý thức nhân phẩm đã trở về, anh không thể chấp nhận trở lại kiếp sông thú vật được nữa.
Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống, chết trong tâm trạng bi kịch đau đớn. Thế là, trước đây, để bám lại sự sống, Chí Phèo phải từ bỏ nhân phẩm, bán linh hồn cho quỷ; giờ đây, ý thức nhân phẩm thức dậy, linh hồn trở về. Nhiều người nghi ngờ tâm lòng của Nam Cao đối với nông dân, vì thấy người nông dân của nhà văn phần nhiều xấu xa dữ tợn. Vậy mà chính ở những người khốn khổ có bộ mặt và tính cách không mấy “đáng yêu” đó, nhiều khi ý thức nhân phẩm còn mạnh hơn cả cái chết. Lão Hạc bề ngoài dường như lẩm cẩm, gàn dở nhưng lão đã lặng lẽ tìm đến cái chết để giữ trọn lòng tự trọng trong cảnh cùng đường (Lão Hạc). Lang Rận cũng tìm đến cái chết vì không chịu nổi điều nhục nhã đang chờ ông ta hôm sau (Lang Rận) và ở đây là Chí Phèo?
Chí Phèo đã chết quằn quại trên vũng máu trong niềm đau thương vô hạn, khao khát lớn lao, thiêng liêng là được làm người lương thiện đã không thực hiện được. Lời nói cuối cùng của Chí Phèo, vừa đanh thép, chất chứa phẫn nộ vừa mang sắc thái triết học và âm điệu bi thống đầy ám ảnh, làm người đời sững sờ và day dứt không thôi…”Ai cho tao lương thiện?”.
Làm thế nào để con người được sống cuộc sống con người? Đó là “một câu hỏi lớn không lời đáp chẳng những Bá Kiến không thể hiểu mà xã hội khi ấy cũng chưa thể trả lời Câu hỏi ấy được đặt ra một cách bức thiết, day dứt trong hầu như toàn bộ sáng tác Nam Cao ưước cách mạng. Và đặt ra bằng một tài năng lớn, độc đáo, khiến cho nhiều sáng tác của Nam Cao – trước hết là Chí Phèo – thuộc vào những trang hay nhất của nền văn xuôi Việt Nam.
Nghị luận Chí Phèo (mẫu 9)
Nam Cao là nhà văn tiêu biểu với những sáng tác về người nông dân, tác phẩm Chí phèo được coi là kiệt tác, khẳng định tài năng và phong cách nghệ thuật của ông. Nhà văn đã dựng lên bức tranh về cuộc sống của những người nông dân dưới sự áp bức của địa chủ cường hào, đã đẩy họ con đường tha hóa và xuống tận cùng của xã hội.
Truyện Chí Phèo đã tái hiện lại hình ảnh nông thôn Việt Nam, của xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Xã hội này được đặc trưng, một bên bởi những bộ mặt như Bá Kiến, Lí Cường, Đội Tảo, Bát Tùng và những bè đảng xung quanh chúng, sống phè phỡn, gian ác, bạo ngược, vừa “du lại với nhau để bóc lột con em, nhưng ngấm ngầm chia rẽ, nhè từng chỗ hở để mà trị nhau”; một bên là đông đảo những người dân quê thấp cổ bé miệng, nơm nớp lo sợ, nhẫn nhục, quanh năm đầu tắt mặt tối vẫn không đủ ăn. Tầng lớp những người như Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức họp thành một nhóm riêng. Họ là những dân thường, những người lao động nghèo, nhưng đã lưu manh hóa, bị mua chuộc và trở thành tay sai của bọn cường hào, lí dịch và gây nên không biết bao nhiêu tai vạ cho những người lương thiện.
Dưới ngòi bút của Nam Cao, bức tranh xã hội hiện ra đầy kịch tính, chất chứa những xung đột bùng nổ.Thông qua nhân vật Chí Phèo Nam Cao đã trực tiếp nêu lên vấn đề con người bị tha hóa, bị vong thân, mất nhân tính, nhân cách vì bị áp bức bóc lột, vì đói khổ, cùng cực. Tác giả đã mổ xẻ vấn đề cuộc sống và số phận mỗi con người, ý thức về quyền sống, quyền làm người, ý thức về nhân cách, nhân phẩm ngay ở những con người bị cộng đồng khinh bỉ, hắt hủi, gạt ra bên lề xã hội, ngay ở một “thằng cùng hơn cả dân cùng”, tưởng như đã bị hủy hoại hoàn toàn cả nhân hình và nhân tính.
Bên cạnh đó, truyện Chí Phèo còn giúp người đọc có cơ sở để chia sẻ với những dằn vặt, đau khổ của con người khi không được làm người, chỉ mong ước được sống bình thường, “được làm người lương thiện” như mọi người khác mà không được. Sự kết hợp hai mặt xã hội và nhân bản trong chủ đề mà truyện ngắn Chí Phèo đặt ra càng làm cho tác phẩm này có giá trị văn học sâu hơn, có sức ngân vang lớn hơn.
Các nhân vật trong truyện của Nam cao đều có những nét tính cách đặc sắc, từ Chí Phèo, Thị Nở, cho đến Bá Kiến, Lí Cường, Năm Thọ, Binh Chức, Đội Tảo, Tự Lãng, bà cô Thị Nở v.v… Tất nhiên, trong các nhân vật này, gây ấn tượng mạnh mẽ nhất ở người đọc là Chí Phèo, Bá Kiến, Thị Nở. Mỗi nhân vật đúng là một cá tính, là “con người này”, không lẫn vào đâu được, với ngoại hình và tính cách riêng, lối sống riêng, ngôn ngữ riêng, số phận riêng, đồng thời lại tiêu biểu cho một loại người nào đó về mặt xã hội, sinh hoạt, tâm lí.
Bá Kiến là điển hình của bọn lí dịch cường hào ở nông thôn. Chúng đều có những nét chung: hống hách, gian ác, dâm ô, đầy thủ đoạn mưu mô để giành giật và củng cố chức quyền cho cá nhân và con cái, đục khoét, ức hiếp dân lành, hãm hại những kẻ không ăn cánh và chống đối. Bá Kiến càng tỏ ra ranh ma quỷ quyệt trong nghề làm tổng lí, đặc biệt khi phải đối phó với những tên vai vế tranh chấp chức quyền với hắn hoặc những kẻ cố cùng liều thân. Tùy người, tùy việc, y biết lúc nào thì quát tháo, dọa nạt, lúc nào thì nhẹ nhàng, dụ dỗ, mua chuộc. Chính nhờ vậy lão mới thực hiện được mọi ý đồ đen tối của mình, khuất phục được bọn đầu bò đầu bướu, hạ được các phe cánh đối nghịch trong làng, quyền thế ngày càng thăng tiến và vững vàng. Con người khôn ngoan lõi đời ấy đã khống chế lừa bịp được Chí Phèo lâu dài, nhưng cuối cùng đã bị Chí Phèo giết chết, vì từ trong thâm tâm, trong tiềm thức, Chí đã nhận ra lão chính là kẻ thù của. mình, kẻ đã tước đoạt quyền làm.người của mình.
Đối với Bá Kiến thì Chí Phèo cũng chỉ là một trong số những tên dân cùng liều lĩnh như Năm Thọ, Binh Chức, cho nên cách xử sự của lão đối với Chí Phèo nói chung cũng giống “sách lược” đối với hạng đầu bò đầu bướu: dọa nạt, trấn áp công khai hoặc ngấm ngầm; hoặc nếu cần thì vô hiệu hóa, mua chuộc, lợi dụng làm tay chân. Và Chí Phèo cũng như Năm Thọ, Binh Chức đều biết rõ bản chất, chỗ mạnh và chỗ yếu của Bá Kiến và hạng người như lão. Nhưng Chí Phèo phục vụ cho Bá Kiến lâu dài hơn, đắc lực hơn, ngay từ lúc là một anh canh điền chất phác, khỏe mạnh, và cả sau khi đi tù về trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Chí Phèo cũng bị lão hành hạ, đày đọa, làm nhục nhiều hơn. Và do vậy, Chí Phèo hiểu rõ lão hơn, nặng oán thù hơn đối với lão. Lúc tỉnh táo, Chí Phèo đã ý thức rõ về cảnh tủi nhục phải hầu hạ mụ vợ ba của Bá Kiến, về chuyện bị Bá Kiến hãm hại đẩy vào tù. Sau khi ở tù ra, hắn đã biến thành một con người khác. Từ một thanh niên hiền lành, rụt rè, hắn đã biến thành một tên lưu manh, liều lĩnh, hung dữ, rượu chè say khướt, chửi bới suốt ngày. Nhưng lúc tỉnh cũng như lúc say, trong ý thức và trong tiềm thức, hắn vẫn không bao giờ quên Bá Kiên. Bá Kiến đúng là nỗi ám ảnh của hắn.
Trong suốt thiên truyện, tác giả chỉ miêu tả ba lần Chí Phèo gặp Bá Kiến, sau khi hắn ở tù ra. Lần thứ nhất, sau khi uống rượu say, hắn xách một cái vỏ chai đến cổng nhà Bá Kiến gọi tên tục của lão ra mà chửi. Hắn định đến để gây sự. Gây sự, chửi bới, chống đối một người như Bá Kiến vừa đế thỏa sự căm giận, vừa có dịp để lên mặt với những người xung quanh, vừa có thể vòi tiền uống rượu. Với một người như Chí Phèo, một người mà sự liều lĩnh hung dữ là một cách để tự giới thiệu mình, để tồn tại và cũng là để che đậy sự sợ hãi cố hữu, thì không có gì có thể nói trước được về dự định và hành động. Tất cả tùy thuộc vào tình huống cụ thể. Gặp Lí Cường, bị Lí Cường quát mắng, tát tai, hắn rạch mặt, la làng, lăn đùng ra ăn vạ. Nhưng khi Bá Kiến “dịu dàng” chào hỏi, mời mọc, tỏ vẻ ân cần săn sóc, cho tiền, thì hắn lại nguôi ngoai, thích chí, hả hê.
Lần thứ hai, sau khi uống rượu say, hắn lại ngật ngưỡng đến nhà Bá Kiến nói là để đòi nợ. Gặp Bá Kiến, hắn xin đi ở tù, vì “ở tù còn có cơm ăn, còn ở làng ở nước thì không làm gì nên ăn, không mảnh đất cắm dùi”. Và, tất nhiên, kèm theo yêu cầu kì quặc ấy, là những lời dọa dẫm úp mở mà Bá Kiến rất hiểu rõ. Nhưng lần này lão Bá Kiến khôn ranh lại đẩy Chí Phèo đi đòi nợ Đội Tảo cho lão. Lão nghĩ bất kì kết cục nào cũng đều có lợi cho lão. Ngẫu nhiên, Chí Phèo lại đòi được nợ và được Bá Kiến cho mấy sào vườn ở bãi sông cắm thuê của một người làng trước đó. Và cũng từ đó, Chí Phèo bao giờ cũng say, và khi hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm, gây ra bao nỗi khiếp sợ và tai vạ cho dân làng.
Lần thứ ba, Chí Phèo gặp Bá Kiến sau khi bị Thị Nở từ chối không nhận làm vợ hắn. Cùng quẫn, phẫn chí, Chí Phèo uống rượu say, cầm dao đi định “đâm chết cả nhà nó”. Nhưng Chí Phèo lại quên rẽ vào nhà Thị Nở mà lại đi thẳng đến nhà Bá Kiến, đòi được làm người lương thiện, và Chí đã đâm chết Bá Kiến rồi tự sát. Kết thúc này bề ngoài có vẻ ngẫu nhiên, thật ra lại rất tất yếu, bộc lộ rõ tính cách của Chí Phèo, ý đồ tư tưởng nghệ thuật của tác giả. Đây là một kết thúc khiến cho người đọc phải suy nghĩ rất nhiều về thực trạng và mâu thuẫn xã hội, về cuộc sống và bi kịch của đời người.
Câu chuyện đã tạo nên một ngã rẽ cho cuộc đời Chí từ khi gặp thị nở. Sau những ngày hạnh phúc ngắn ngủi với thị, Chí càng cảm thấy thêm cay đắng, khổ sở vì thân phận và điều này càng đẩy nhanh Chí đến một hành động tuyệt vọng. Chí không chỉ say, hung dữ, liều lĩnh, gây tội ác, mà còn biết sợ, tính toán, nhận diện được kẻ thù. Chí suy nghĩ, đau khổ về kiếp sống không bình thường, không ra người, không lương thiện của mình. Trong những ngày được hạnh phúc với Thị Nở, Chí cũng biết vui, biết mơ ước, biết buồn, biết ăn năn. Bị Thị Nở từ chối, đối với Chí, là một đòn đau không chịu đựng nổi. Từ kinh nghiệm sống, từ tiềm thức vô thức, Chí cảm nhận tình trạng bé tắc vô vọng của mình có nguyên nhân sâu xa hơn tội ác của Bá Kiến. Giết Bá Kiến cũng không có được sự giải thoát. Và hắn đã tự sát.
Dưới ngòi bút của Nam Cao Chí Phèo không chỉ là hình ảnh những tên cố cùng liều thân hoặc là điển hình, của những người nông dân lưu manh hóa vì sự áp bức bóc lột của bọn thực dân phong kiến, mà còn thể hiện bi kịch của con người bị tước đoạt quyền sống, quyền làm người, quyền được hưởng hạnh phúc. Cái điều rất nghiêm trang, rất đau lòng, rất tội nghiệp mà Nam Cao đã ghi lại và muốn nhắn gửi cho người đời thông qua một câu chuyện tưởng như chẳng có gì, một số nhân vật dị dạng và một giọng văn pha nhiều tính chất hài hước, nội dung thông điệp đó nhiều thế hệ độc giả đã hiểu và càng đánh giá cao tác giả.
Xây dựng lên những nhân vật tiêu biểu, nhà văn đã dùng những ngôn ngữ của đời sống, ngôn ngữ được quần chúng nhân dân sử dụng hằng ngày, rất phong phú, sinh động, giàu hình ảnh. Có thể nói hơn bất kì một nhà văn nào khác cùng thời, ngôn ngữ Nam Cao cho đến bây giờ vẫn tỏ ra không cũ với thời gian, cả về mặt từ vựng, ngữ nghĩa, cú pháp.
Phải có sự cảm thông sâu sắc với thân phận những người nông dân Nam Cao mới có mới có một tác phẩm giá trị như vậy. Ông đã khắc họa lên bức tranh xã hội với những bọn địa chủ cường hào gian ác, những con người nông dân tội nghiệp, bị chèn ép, bóc lột, không để cho họ một con đường sống.
Nghị luận Chí Phèo (mẫu 10)
Nam Cao cây bút cuối của văn học giai đoạn 1930 – 1945, nhưng nhờ có ông và các phẩm xuất sắc của mình, Nam Cao đã làm bừng sáng cả một giai đoạn văn học, ông đã góp phần không nhỏ vào mảng tranh hiện thực xã hội Việt Nam trước cách mạng. Hai đề tài chủ yếu của ông gồm người nông dân và người trí thức, trong đó đề tài người nông dân là nổi bật hơn cả. Với đề này truyện Chí Phèo đã trở thành áng văn bất hủ của Nam Cao nói riêng và của văn học Việt Nam nói chung.
Tác phẩm ban đầu có tên là Cái lò gạch cũ do chính nhà văn đặt, nhưng sau đó đổi thành Đôi lứa xứng đôi, do nhà xuất bản đổi, nhằm tăng tính giật gân, gây chú ý với bạn đọc. Cuối cùng Nam Cao đổi tên tác phẩm thành Chí Phèo, nhằm làm nổi bật nhân vật trung tâm của tác phẩm, đề cao giá trị hiện thực và nhân đạo qua nhân vật này.
Chí Phèo là một đứa trẻ mồ côi, bị bỏ rơi ở lò gạch cũ, Chí được anh thả ống lươn nhìn thấy nhặt về, mang cho một bà góa mù nuôi, sau đó bà góa mù bán cho bác phó cối không con, bác phó cối mất đi thì sống trong sự đùm bọc của dân làng. Khi Chí lớn lên làm canh điền cho Bá Kiến, là một con người lương thiện, chăm chỉ làm lụng, nhưng vì bị bà ba gọi vào bóp chân, Bá Kiến thấy được nổi cơn ghen nên đã đẩy Chí Phèo vào tù. Từ một người nông dân hiền lành, chất phác, mang trong mình những mơ ước giản dị, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải,… Chí Phèo đã bị Bá Kiến và nhà tù thực dân làm cho tha hóa, biến chất.
Hắn ở tù về đã trở thành một người khác hẳn: Cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt cơng cơng, hai mắt gườm gườm…, mặc bộ quần áo tây vàng với quần nái đen, phanh áo để lộ hình xăm. Hắn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, uống rượu say khướt để chửi trời, chửi đời, hắn lăn ra ăn vạ mọi người,… Chí Phèo lương thiên đã trở thành thằng lưu manh, liều lĩnh, lấy sự lưu manh để kiếm sống qua ngày. Bị Bá Kiến lợi dụng, Chí Phèo trở thành tay sai cho cái ác, hắn triền miên trong cơn say, làm bất cứ điều gì mà người tay sai bảo, gây nên biết bao tội ác và thực sự trở thành con quỷ của làng Vũ Đại.
Trong những cơn say triền miên, chưa từng có lúc nào Chí sống trong sự tỉnh táo. Nhưng hôm ấy là một ngày rất khác, Chí uống say ở nhả Tự Lãng, trên đường về nhà thấy ngứa ngáy nên Chí ra sông tắm, ở đây Chí gặp Thị Nở, họ ăn nằm với nhau. Nửa đêm Chí bị cảm nôn mửa, nhờ có Thị Nở nếu không có lẽ Chí đã chết. Sau những cơn say triền miên, đây là lần đầu tiên Chí tỉnh, hắn nhận thức được cuộc sống xung quanh: mặt trời đã lên cao với ánh nắng vàng rực rỡ, những âm thanh của cuộc sống nghe vui vẻ quá đó là tiếng chim, tiếng những người đàn bà đi chợ bán vải về, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những âm thanh mà bấy lâu nay Chí không còn nghe, không còn để ý nữa.
Từ nhận thức về cuộc sống, Chí chuyển về nhận thức chính mình: hắn nhớ về quá khứ tươi đẹp, với mơ ước giản dị, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải,… mong ước thật giản dị và đẹp đẽ. Nhưng hiện tại chỉ là con số không tròn trĩnh, Chí nhận ra mình không vợ, không con, không tài sản, không được công nhận và bản thân đã đi sang dốc bên kia cuộc đời. Tương lai đáng sợ mở ra trước mắt, đói rét, bệnh tật và cô độc. Nhưng chính trong lúc hắn đang miên man suy nghĩ, thị Nở xuất hiện với bát cháo hành trên tay, hắn đón nhận bằng tất cả sự xúc đông và biết ơn. Hắn ăn cháo hành và chưa bao giờ thấy nó ngon đến vậy, hắn khóc, nước mắt của một kẻ tưởng chừng đã bị cướp mất nhân tính vĩnh viễn. Ngạc nhiên và cảm động (“mắt ươn ướt”) vì đây là lần đầu tiên được đàn bà cho, đây là lần đầu tiên Chí Phèo được ăn cháo, lần đầu được săn sóc bởi bàn tay đàn bà. Năm ngày sống với thị Nở đã giúp Chí hồi sinh, khao khát được làm lành với mọi người, được làm người lương thiện và thị Nở sẽ là người mở đường cho hắn.
Niềm hạnh phúc không được bao lâu, thị Nở trình bày với bà cô về ý định nên duyên với Chí và bị gạt phát đi. Thị Nở – một người dở hơi, đùng đùng đến cự tuyệt Chí. Ban đầu hắn cười vì nghĩ Thị trêu đùa mình, rồi hắn nghĩ ngợi và hình như đã hiểu sự việc, hắn ngẩn người ra không nói được gì. Thị Nở bỏ về, Chí có đuổi theo cũng chị là vô cũng, Chí đau đớn, phẫn uất đến tận cùng. Hắn uống nhưng uống lại càng tỉnh, hơi cháo hành thoang thoảng đâu đây, hắn ôm mặt khóc rưng rức. Trong nỗi đau tột cùng hắn xách dao tìm đến nhà thị Nở để đâm chết cả nhà Thị, nhưng cuối cùng hắn đến nhà Bá Kiến như một thói quen. Nhưng đồng thời Chí Phèo mơ hồ nhận ra kẻ thù đích thực, nhận ra nguyễn nhân gốc rễ đẩy mình vào bi kịch không phải cô cháu Thị Nở mà là Bá Kiến. Chí giết Bá Kiến và tự hủy hoại chính mình. Đây là lựa chọn duy nhất của Chí, bởi hắn không thể làm người lương thiện vì làng Vũ Đại không chấp nhận hắn. Hắn cũng không thể làm con quỷ vì bản thân đã thức tỉnh. Chết là lựa chọn duy nhất của Chí Phèo. Cái chết của Chí là lời tố cáo đánh thép, sắc bén vào xã hội đương thời đã đẩy con người vào bước đường cùng.
Ngoài nhân vật Chí Phèo, Thị Nở cũng là một nhân vật đặc sắc trong tác phẩm. Thị Nợ là người quá lứa, lỡ thì, xấu ma chê quỷ hờn, lại thêm tính dở hơi ngẩn ngơ những người đần trong cổ tích, có dòng giống mả hủi. Bản thân thị Nở hội tụ đầy đủ những yếu tố không có cơ hội tìm kiếm cơ hội hạnh phúc cho bản thân. Số phận của thị cũng hết sức bi đát, thảm hại. Nhưng bản thân thị lại là người biết yêu thương, chăm sóc những người xung quanh. Trong đêm gặp Chí, Chí bị cảm lạnh, Thị là người đưa Chí về và chăm sóc chu đáo, đắp manh chiếu cho Chí rồi mới về. Dường như về rồi Thị Nở vẫn chưa yên tâm, thị động lòng thương thức dậy nấu cháo cho Chí.
Thị cũng như bao người phụ nữ khác khao khát yêu thương và được yêu thương. Thị Nở sẵn sàng vượt qua định kiến, đến ở với Chí Phèo năm ngày, đó là quãng thời gian đẹp đẽ nhất, hạnh phúc nhất trong đời Thị. Nhưng cuối cùng Thị vẫn không thể vượt qua những định kiến, nghe lời bà cô, Thị Nở đã cự tuyệt tình cảm của Chí, khước từ mở đường cho Chí về với con người lương thiện. Xây dựng nhân vật Thị Nở góp phần làm nổi bật nhan vật Chí Phèo, thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Không chỉ vậy, nhờ có Thị Nở Chí Phèo mới được hồi sinh, quá đó thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của tác giả, niềm tin vào bản chất lương thiện của con người. Nhưng cũng chính Thị Nở là người đẩy Chí Phèo vào bị kịch bị cự tuyệt làm người. Tác phẩm đã truyền tải giá trị hiện thực: vạch trần bộ mặt xấu xa của xã hội thực dân nửa phong kiến.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc: Chí Phèo điển hình cho người nông dân Việt Nam bị tha hóa trước cách mạng ; nghệ thuật phân tích diễn biên tâm lí nhân vật hợp lí, giàu ý nghĩa. Cốt truyện giàu kịch tính, mang đến những bất ngờ, hấp dẫn cho người đọc. Ngôn ngữ sống động, điêu luyện, gần gũi như lời ăn tiếng nói hàng ngày nhưng vẫn giàu giá trị nghệ thuật.
Với tác phẩm Chí Phèo, tác giả đã phơi bày, vạch trần bộ mặt của xã hội thực dân nửa phong kiến phi nhân tính, đã đầy con người vào bước đường cùng, tha hóa về nhân hình và nhân tính. Nhưng bên cạnh đó còn thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc, niềm tin vào bản chất tốt đẹp trong mỗi con người. Qua tác phẩm cũng thể hiện lòng cảm thương với số phận người nông dân bất hạnh.
VII. Nghị luận về Vợ nhặt
Nghị luận Vợ nhặt (mẫu 1)
Kim Lân là nhà văn của làng quê Việt Nam với cách viết chân chất, mộc mạc và những hình ảnh nhân vật điển hình cho làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu vào lòng người đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình. Tác phẩm “Vợ nhặt” là một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện thành công xã hội nghèo khổ, cùng cực, bế tắc của người nông dân. Bằng bút pháp tả thực Kim Lân đã xây dựng thành công tuyến nhân vật đại diện cho cuộc sống bần cùng giai đoạn đó.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi vào nạn đói năm 1945, đời sống nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết nhan nhản, ”người chết như nga ra, không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vấn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Khung cảnh xóm ngụ cư ấy đã diễn tả được cái đói đang hoành hành, đời sống nhân dân thê thảm. Ngay từ nhan đề của tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc khám phá cuộc sống của những điều khốn khổ, bần hàn nhất. Là “vợ nhặt”, là chi tiết và là tình huống truyện thắt nút làm nên cuộc đời của từng nhân vật.
Mở đầu truyện ngắn, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…” Chỉ với vài chi tiết đó, người đọc cũng đã hình dung được diện mạo xấu xí của một anh nông dân nghèo rách mùng tơi. Từ ngày nạn đói hoành hành, đám trẻ con không buồn trêu tràng nữa, vì chúng đã không còn sức lực. Khung cảnh buồn thiu, đầy ám ảnh bao phủ lên xóm nghèo. Trong khung cảnh chiều tà, suy nghĩ của Tràng được tái hiện “hắn bước đi từng bước mệt mỏi, cái áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay. Hình như những lo lắng, cực nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”.
Với vài chi tiết tiêu biểu, Kim Lân đã vé lên trước mặt người đọc hình ảnh người nông dân nghèo đói, xơ xác, bộn bề lo lâu đến cùng cực. Tác giả đã thật khéo để xây dựng nên tình huống truyện độc đáo, mới lạ, làm thay đổi cuộc đời của một con người. Tình huống Tràng “nhặt” được vợ. Là “nhặt” được chứ không phải lấy được. Người đọc nhận ra sự thê thảm, bước đường cùng và đầy éo léo của con người trong xã hội bấy giờ.
Hình anh vợ anh cu Tràng dần dần hiện ra dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn đầy ám ảnh “thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”. Một người đàn bà nghèo khổ, không còn thứ gì giá trị đi cạnh một người đàn ông nghèo khổ, cùng cực đúng là một đôi trời sinh. Giữa cái đưa vợ “nhặt” được về nhà, Kim Lân đã xây dựng nên khung cảnh đìu hiu, ảm đạm của xóm nghèo “từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt.
Hai bên dãy phố, úp sụp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới gốc đa, gốc gạo xù xì bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ kêu trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”. Không còn gì thê thảm và hiu hắt hơn khung cảnh chiều tàn nơi xóm nghèo như vậy. Mọi thứ dường như bị cái đói, cái nghèo đè nén đến chìm nghỉm. Bằng ngòi bút tả thực sinh động, Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc nhiều chua xót, đắng cay cho những phận nghèo long đong.
Điều đáng chú ý chính là cách những người hàng xóm hỏi thăm Tràng về người đàn bà đi bên cạnh tràng. Thực ra thấy lạ nên người ta mới hỏi, thì cũng hiểu ra, có lẽ là vợ Tràng, “nhìn chị ta thèn thẹn hay đáo để”. Người đàn bà bắt không còn chua ngoa, đanh đá nữa mà trở nên thẹn thùng khi quyết định theo Tràng về làm vợ. Làm vợ một cách bất ngờ, giữa cảnh đói như ngả rạ. Có lẽ cái nghèo đói đã đẩy hai con người đến với nhau, không phải tình yêu nhưng là tình thương. Hẳn người đọc sẽ cảm thông và xót thương cho những mảnh đời dật dờ nơi xóm ngụ cư.
Khi trở về nhà, hình ảnh bà cụ Tứ, mẹ Tràng được Kim Lân khắc họa diễn biến và sự chuyển đổi trong tâm tính thật tài tình và sâu sắc. Người đọc sẽ hiểu hơn tấm lòng một người mẹ bao dung và hiền hậu. Chi tiết “bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà, đến giữa sân bà sững lại vì thấy có một người đàn bà ở trong…” Sự băn khoăn lo lắng của bà cụ bắt đầu hiện lên. Nhưng rồi bà cũng nhận ra, cũng hiểu “bà lão cúi đầu nín lặng, bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót xa cho số kiếp con mình. Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc làm ăn nên nổi, còn mình…” Những suy nghĩ chua xót của bà lão được Kim Lân diễn tả qua một loạt động từ tình thái khiến cho cái khổ, cái đói lại vồ vập và hiển hiện rõ ràng hơn bao giờ hết.
Bà đã chấp nhận người “vợ nhặt” của con trai. Tình huống khiến người đọc nhớ mãi, hình ảnh khiến người đọc khi nhắc đến tác phẩm này đều không quên là hình ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu đầu tiên. Hình ảnh “nồi cháo cám” là hiện thân của cái đói nghèo đến cùng cực trong một gia đình “không còn gì giá trị nữa”. Bà cụ Tứ hôm nay thay đổi tâm trạng, toàn nói những chuyện vui trong nhà, vì bà muốn mang lại không khí vui tươi hơn giữa cái nghèo. Hình ảnh “nồi cháo cám” hiện lên bình dị, đầy chua xót và nước mắt của người mẹ nghèo. Ai cũng muốn có một bữa cơm đón dâu có mâm cao, cỗ đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn, “nồi cháo cám” là thứ duy nhất đong đầy yêu thương bà có thể mang lại cho con.
Đây là một chi tiết vô cùng đắt giá trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân khiến người đọc nhớ mãi. Bên cạnh đó hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện của cuối truyện ngắn đã mang đến chút niềm tin và hi vọng về một tương lai tươi sáng hơn. Bằng ngòi bút miêu tả chân thực, sinh động, cách khắc họa tâm lý nhân vật sắc sảo, độc đáo và cốt truyện đầy bất ngờ Kim Lân đã vẽ lại trước mắt người đọc khung cảnh đói nghèo tràn lan của xã hội Việt Nam những năm 1945. Qua đó tác giả cũng nhấn mạnh tình yêu thương giữa người với người luôn bất diệt.
Nghị luận Vợ nhặt (mẫu 2)
Kim Lân, nhà văn chuyên viết truyện ngắn, với biệt tài viết về người nông dân. Người nông dân trong trang viết của Kim Lân dù nghèo khổ nhưng luôn sáng ngời những phẩm chất: yêu đời, thật thà, chất phác, hóm hỉnh, tài hoa. Vợ nhặt là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông khi viết về người nông dân.
Tác phẩm là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất nằm trong tập truyện “Con chó xấu xí” (1962). Tác phẩm này trước vốn là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” – được viết ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công. Tuy nhiên chỉ được viết dở dang và sau đó mất bản thảo. Đến năm 1954, khi hòa bình lập lại, nhân một số báo văn nghệ kỉ niệm cách mạng tháng Tám thành công, Kim Lân đã nhớ lại tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, dựa trên cốt truyện cũ viết lại thành truyện ngắn. Ngay từ khi ra đời, tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn trong giới sáng tác.
Tác phẩm lấy bối cảnh là nạn đói năm Ất Dậu 1945, năm diễn ra nạn đói khủng khiếp, khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Cái đói tràn lan, khủng khiếp diễn ra ở khắp nơi khiến con người không thể nào chống cự được, tất cả những yếu tố đó đã được Kim Lân tái hiện thành công trong tác phẩm của ông. Trước hết là màu sắc, ông đi khai thác màu xanh xám của da người, màu đen kịt của đàn quạ bay trên trời. Những màu sắc gợi lên sự chết chóc, ảm đạm, tàn lụi và héo úa. Bao quanh không gian đó là mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người, mùi đốt đống dấm khét lẹt. Kết hợp với tiếng quạ kêu từng hồi, hòa lẫn với tiếng khóc hờ từ những gia đình có người chết.
Để làm rõ nét hơn, Kim Lân còn cho người đọc thấy hình ảnh sáng nào cũng có ba bốn thây người nằm chết cong queo bên đường. Tình cảnh vô cùng thảm thương, bất hạnh. Kim Lân nhìn nhận hiện thực bằng cái nhìn chân thực, sắc nét, không né tránh, phơi bày tất cả trên trang văn của mình, để người đọc thấy rõ cái khủng khiếp của nạn đói năm 1945. Nhưng giá trị thật sự của tác phẩm là ở chỗ: từ trong bóng tối của cái đói, cái chết, tác giả tìm thấy ánh sáng của vẻ đẹp tâm hồn con người.
Sau khi vẽ nên khung hình chung của nạn đói, nhân vật đầu tiên trong thiên truyện xuất hiện, đồng thời cũng là nhân vật trung tâm của tác phẩm – anh cu Tràng. Tràng vốn là dân ngụ cư, sống tha phương cầu thực, những người dân ngụ cư thường bị phân biệt, kì thị, sống ở rìa làng, chứ không được sống trong trung tâm của làng như những người khác. Không chỉ vậy, họ còn không được chia ruộng đất, không được tham gia bất cứ hoạt động sinh hoạt cộng đồng nào của làng xã. Anh cu Tràng bị đặt ra ngoài lề xã hội. Không dừng lại ở đó, gia đình Tràng còn rất nghèo, cha mất, chỉ con hai mẹ con nương tựa vào nhau, vì không được chia ruộng nên Tràng phải làm công việc bấp bênh để kiếm sống: kéo xe bò thuê.
Dường như số phận càng trở nên trớ trêu hơn, khi gia cảnh nghèo nàn, là người ngụ cự, anh Tràng còn có ngoại hình hết sức xấu xí. Hai mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, còn hai bên quai hàm bạnh ra, khiến khuôn mặt càng to lớn hơn. Thân hình to lớn vập vạp, như một người khổng lồ. Tràng còn vừa đi vừa lảm nhảm những điều mình nghĩ và cứ thể ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch. Anh cu Tràng hội tụ đầy đủ vẻ đẹp hấp dẫn lũ trẻ con, còn với các cô gái anh hoàn toàn không có chút hấp dẫn nào, cả về ngoại hình lẫn gia cảnh, anh cu Tràng không có khả năng để lấy được vợ.
Nhưng trong một lần hát nghêu ngao trong lúc làm việc, anh cu Tràng đã lấy được vợ một cách đầy bất ngờ và ngỡ ngàng. Trong lúc làm việc mệt nhọc, dân ta thường có những câu hò để xua tan cái mệt, tăng động lực làm việc. Và anh cu Tràng cũng vậy, anh cũng hát, lời hát hết sức bông đùa: “Muốn ăn cơm trắng với giò. Lại đây mà đẩy xe bò với anh”. Lời nói ấy đã khiến thị theo anh cu Tràng về làm vợ thật.
Trước khi đưa cô vợ về nhà, Tràng rất chu đáo, mua cho vợ một chiếc thúng con mới, dẫn thị đi ăn một bữa thật no, mua những hai hào dầu để về thắp sáng trong nhà. Anh cu Tràng từ một kẻ thô kệch, lúc nào cũng nói chuyện một mình và cười hềnh hệch, hôm nay bỗng trở nên tâm lí và tinh tế lạ thường. Trên đường đi về Tràng vui sướng, hớn hở, miệng lúc nào cũng tủm tỉm cười. Khuôn mặt vừa hạnh phúc, rạng rỡ vừa vênh vênh tự đắc với chính mình. Cảnh sống cực khổ ê chề hàng ngày, Tràng đã quên hẳn, mà chỉ sống trong niềm vui, niềm hạnh phúc khi lấy được vợ.
Bước chân đến nhà Tràng bỗng ngượng nghịu, xấu hổ, đứng tây ngây giữa nhà, chợt thấy sờ sợ nhưng lại vừa hạnh phúc sung sướng khi việc mình lấy vợ đã trở thành hiện thực. Điều Tràng mong ngóng nhất là đợi mẹ mình về nhà, để ra mắt nàng dâu mới. Lời giới thiệu thị với mẹ cũng rất trân trọng, để nàng dâu bớt đi phần ngượng ngùng, xấu hổ. Tràng đã thay đổi là một con người khác hẳn, tâm lí, nhạy bén và rất khéo léo trong cách ăn nói. Dường như hạnh phúc mới này đã đem đến sự thay đổi lớn trong tâm lí, suy nghĩ của anh cu Tràng.
Hạnh phúc đã khơi dậy ý thức bổn phận của người đàn ông trong gia đình. Sáng hôm sau, Tràng tỉnh dậy muộn, cảm thấy trong người dễ chịu, êm ái, như người đi ra từ trong giấc mơ, anh ngỡ ngàng trước hạnh phúc mình đang nắm giữ. Tràng quan sát khung cảnh đang bày ra trước mắt mình, nhận thấy cảnh tượng thay đổi mới mẻ, khác lạ, nhà cửa không bừa bộn mà được dọn dẹp sạch sẽ, không khí gia đình trở nên ấm áp, vui vẻ, mẹ và vợ chung tay dọn dẹp, vun vén nhà cửa. Trành thấy thấm thía, cảm động và bỗng thấy yêu thương những người xung quanh, đồng thời nhận thấy trách nhiệm của bản thân, phải biết lo lắng cho gia đình, vợ con. Và sự ý thức đó đã được hiện thực hóa bằng hành động xăm xăm chạy ra sân, muốn chung tay tu sửa căn nhà.
Tràng muốn chung tay để nghênh đón tương lai tươi sáng đến với gia đình. Đồng thời trong Tràng cũng bừng lên khát vọng đổi đời mãnh liệt, anh biết quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội: mạn Thái Nguyên Bắc Giang không đóng thuế mà còn phá kho thóc Nhật cha cho người đói. Hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới lẩn khuất, ẩn hiện trong trí óc Tràng. Hình ảnh lá cờ chính là tín hiệu cho tương lai tươi sáng. Người đọc tin tưởng Tràng sẽ đi theo Việt Minh, theo cách mạng.
Xây dựng nhân vật Tràng, Kim Lân trước hết phơi bày cuộc sống khổ cực của nhân dân ta trong nạn đói 1945. Nhưng đằng sau đó còn là sự cảm thương cho số phận họ. Trân trọng, phát hiện và ngợi ca vẻ đẹp của người dân Việt Nam trong tình cảnh khốn cùng: tấm lòng nhân hậu, khát khao hạnh phúc, tin tưởng vào tương lai. Bên cạnh nhân vật Tràng, ta cũng không thể không nhắc đến nhân vật người vợ nhặt. Người vợ nhặt không có lai lịch rõ ràng, không rõ tên tuổi, quê quán, nghề nghiệp và cũng không hề có tài sản gì khi lần đầu gặp Tràng. Có thể thấy rằng, trong nạn đói khủng khiếp, thân phận con người trở nên hết sức vô nghĩa.
Lần thứ hai gặp Tràng, quần áo thị rách rưới, tả tơi như tổ đỉa, người gầy sọp đi vì đói, mặt lưỡi cày xám ngoét…. Ngoại hình thị vô cùng thảm hại, do cái đói đã gây ra cho con người. Ngôn ngữ của thị cũng hết sức chao chát, chỏng lỏn: “Điêu! Người thế mà điêu!”, “Ăn thật nhá”, “Hà, ngon. Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”; rồi thì “Ton ton chạy lại”, “liếc mắt cười tít”, “sầm sập chạy đến”, “xưng xỉa nói”, “cong cớn”, “cắm đầu ăn”, “ăn xong lấy đũa quẹt một cái”. Thị tỏ ra là con người hết sức vô duyên, dường như cái đói, cái chết có thể mài mòn nhân cách con người ta ghê gớm đến như vậy.
Nhưng đằng sau sự chỏng lỏn đến vô duyên ấy lại là một con người có khát vọng sống vô cùng mãnh liệt. Khi nhìn dưới góc độ nhân bản thì tất cả hành động, cử chỉ trơ trẽn, vô duyên của thị lại là biểu hiện của khát vọng sống mãnh liệt. Bên cạnh đó, thị còn hiện lên với vẻ đẹp nữ tính, trên đường về nhà, thị rón rén, e thẹn: “Thị cắp cái thúng con, cái đầu hơi cúi xuống; cái nón rách tả tơi nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”. Khi về đến nhà chồng, thấy quang cảnh nhà chồng thị nén tiếng thở dài, ngồi mớn ở mép giường và vô cùng lễ phép khi gặp mẹ chồng. Sáng hôm sau cô dậy sớm cùng mẹ dọn dẹp, vun vén nhà cửa. Nhân vật thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của tác giả.
Cuối cùng là nhân vật bà cụ Tứ, dù chỉ thấp thoáng trong tác phẩm, nhưng cũng có vai trò, ý nghĩa quan trọng. Bà là người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực: dân ngụ cư tha phương cầu thực; chồng và con gái mất sớm. Cả đời lận đận, chỉ có tâm nguyện lớn nhất là lấy vợ cho con nhưng mãi không dành dụm được tiền, trong lúc nghèo đói đến cùng cực người con trai lại nhặt được vợ. Nhìn thấy con đưa vợ về, bà nín lặng cúi đầu, băn khoăn, nhưng vẫn rất vui mừng cho đôi trẻ. Bà dặn dò hai vợ chồng mới, nói những chuyện tương lai tốt đẹp, đem đến niềm tin, sự lạc quan cho chúng. Bà là một người mẹ nhân hậu và hết sức yêu thương con.
Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của văn học hiện thực. Tác phẩm vừa cho thấy hiện thực cuộc sống nghèo khổ của nhân dân, đồng thời ánh lên giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm thể hiện sự trân trọng, nâng niu những ước mơ đổi đời của con người. Không chỉ vậy, tác phẩm cũng cho thấy nghệ thuật phân tích tâm lí và miêu tả bậc thầy của nhà văn Kim Lân.
Nghị luận Vợ nhặt (mẫu 3)
Kim Lân được mệnh danh là nhà văn của người nông dân, của làng quê Việt Nam bởi trong các tác phẩm của ông luôn hướng tới hình ảnh người nông dân. Với văn phong giản dị, mộc mạc nhưng sâu sắc thấm đẫm tinh thần nhân văn, tác giả Kim Lân đã gửi tới người đọc một tác phẩm kinh điển thể hiện tình cảm đậm đà của ông dành cho những số phận người nông dân nghèo khổ trong xã hội cũ.
Tác phẩm “Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm đặc sắc đại diện cho văn phong, cũng như nhân sinh quan của tác giả Kim Lân. Vợ nhặt ra đời khi nước ta đang trong giai đoạn một cổ hai tròng vừa bị thực dân Pháp đô hộ, vừa bị phát xít Nhật cai trị, kèm theo chế độ phong kiến trong thời kỳ suy tàn, thối nát làm cho người dân vô cùng khốn khổ. Câu chuyện xoay quanh bối cảnh nạn đói kinh điển năm 1945 làm chết hai triệu đồng bào ta. Tại một xóm ngụ cư nghèo nơi tập trung những gia đình đi di tản từ khắp nơi kéo tới đây, tạo thành một khu ngụ cư mới. Ngay cái nhan đề của tác phẩm “Vợ nhặt” đã gợi lên cho người đọc nhiều suy nghĩ về nội dung câu chuyện, thể hiện một việc trọng đại của đời người chính là việc dựng vợ gả chồng nhưng lại được làm rất qua loa, như việc nhặt một món đồ, một viên gạch ngoài đường mang về nhà.
Mở đầu tác phẩm tác giả Kim Lân đã phác họa lên hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…” Chỉ bằng vài chi tiết nho nhỏ tác giả Kim Lân đã khiến cho người đọc hình dung ra được hình ảnh nhân vật. Nhân vật Tràng là người có ngoại hình thô kệch, xấu xí, gia cảnh thì mẹ góa con côi, bần hàn. Hắn chẳng có điểm nào thu hút phụ nữ. Công việc của Tràng làm nghề kéo xe bò thuê chở hàng cho người ta, một công việc lao động tay chân, bán mồ hôi sức lao động để kiếm vào đồng xu lẻ. “Hắn bước đi từng bước mệt mỏi, cái áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay. Hình như những lo lắng, cực nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”.
Sự đói nghèo bần hàn, vây quanh lấy hắn, nhưng trong đầu hắn luôn hiện lên những suy nghĩ lạ lùng thỉnh thoảng lại thấy hắn ngửa mặt cười cười một cái gì đó. Tràng thật sự là một con người kỳ quái. Giữa khung cảnh nghèo đói, cùng cực ấy. Một con người xấu xí, thô kệch nghèo khổ như Tràng những tưởng vĩnh viễn phải sống kiếp cô độc vì chả có gì thu hút người khác thì làm sao mà lấy được vợ. Nhưng không ngờ Tràng vẫn lấy được vợ, mà con lấy được một cách dễ dàng “nhặt” được vợ như nhặt một cục đá mà thôi.
Chỉ bằng những câu nói bông đùa vu vơ, mà Tràng nhặt được vợ “Muốn ăn cơm trắng với giò, thì ra đây đẩy xe bò với anh nào” Chỉ có như thế thôi nhưng một cô gái ngoan ngoãn ra đẩy xe với hắn. Rồi theo hắn về nhà làm vợ. Tác giả Kim Lân đã xây dựng tình huống truyện vô cùng thú vị, độc đáo làm thay đổi số phận của nhân vật Tràng. Làm cho câu chuyển sang một hướng rẽ mới thú vị và thu hút người đọc. Hành động nhặt được vợ của Tràng khiến người ta phải suy nghĩ, bởi việc lấy vợ lấy chồng là việc vô cùng quan trọng trong đời người, bình thường người ta phải làm thật cẩn thận suy tính trước sau. Cô gái làm vợ Tràng cũng thật thiệt thòi biết bao, làm vợ người ta mà không có một lễ cưới, không được làm dăm ba mâm ra mắt họ hàng, không có giấy đăng ký kết hôn, không có chứng nhận của hai bên họ hàng.
Sự nghèo khó đã đẩy những con người khốn khổ xích lại gần nhau hơn. Họ tìm đến với nhau để nương tựa vào nhau trong lúc khó khăn, cho bớt cơ cực. Họ cũng hy vọng khi có nhau rồi cuộc sống của họ sẽ thay đổi ít nhiều có thêm niềm vui vào tương lai. Hình ảnh vợ Tràng hiện lên làm người đọc không khỏi xúc động “thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”.
Khi đưa thị về nhà khung cảnh xóm ngụ cư hiện lên đìu hiu, buồn bã, ảm đạm như những con người sống trong xóm nghèo đó “từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp sụp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới gốc đa, gốc gạo xù xì bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma…” Những người hàng xóm tò mò hỏi Tràng về người phụ nữ đi bên cạnh Tràng. Họ tò mò vì một người nghèo khổ xấu xí như Tràng mà cũng có gái theo. Nhưng có người cũng thực tế hơn họ cho rằng trong thời kỳ đói khổ miếng ăn không có như hiện nay mà còn cưới vợ vác thêm một miệng ăn về nhà thì khác nào vác một cục nợ.
Cứ như thế Tràng và thị đi trong những tiếng xì xào, bàn tán nhưng họ cứ mặc kệ cứ bước đi bên nhau và hy vọng vào ngày mai tươi sáng hơn. Cuộc gặp gỡ giữa mẹ chồng nàng dâu cũng khiến nhiều người phải ám ảnh bà cụ Tứ mẹ Tràng “bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà, đến giữa sân bà sững lại vì thấy có một người đàn bà ở trong…”
Lúc đầu bà cụ lo lắng lắm nhưng rồi bà cụ Tứ cũng nhận ra vấn đề “bà lão cúi đầu nín lặng, bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót xa cho số kiếp con mình. Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc làm ăn nên nổi, còn mình…” Những suy nghĩ đau đớn chua xót của một người mẹ thương con, được tác giả Kim Lân tái hiện qua những trang viết vô cùng xúc động làm lay động trái tim người đọc.
Bà cụ Tứ vui mừng chấp nhận người vợ của con trai mình. Hình ảnh bữa cơm đầu tiên sau đêm tân hôn hiện ra khiến nhiều người không khỏi nghẹn ngào đắng ngắt trong cổ họng. Đó chính là “nồi cháo cám” với đĩa muối trắng, hoa chuối thái vội. Một hình ảnh đại diện cho cái nghèo, hiện lên chân thực, mộc mạc. Tuy nhiên, trong bữa cơm ấy ba con người trong câu chuyện lại ăn uống rất ngon. Họ còn nói chuyện với nhau về tin đồn Việt Minh phá kho thóc Nhật chia cho dân nghèo. Trong bữa cơm ấy, ba con người khốn khổ cùng mơ ước có một ngày được thấy ngọn cờ đỏ sao vàng, được sống một kiếp sống khác. Họ cùng nhau tin tưởng vào tương lai.
Nhân đạo trong tác phẩm Kim Lân cũng thật đặc biệt. Ông đẩy mỗi nhân vật đến tận cùng của khổ sở, để rồi sau đó mở ra con đường, tương lai cho họ. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện cuối tác phẩm, đã mở ra một tương lai tươi sáng, giải thoát cuộc đời của những con người dưới đáy xã hội. Giá trị nhân đạo của tác phẩm được thể hiện rõ nét nhất ở chia tiết này.
Những dòng văn cuối cùng đã kết đọng tinh thần nhân đạo sâu sắc của nhà văn Kim Lân. Ông trân trọng, yêu thương từng cá nhân, từng số phận. Đồng thời ta cũng thấy được nghệ thuật miêu tả, và tạo dựng tình huống bậc thầy của nhà văn này.
Nghị luận Vợ nhặt (mẫu 4)
Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân – một nhà văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với “thuần hậu phong thuỷ” ấy. Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay ngay vào viết tác phẩm Xóm ngụ cư khi hoà bình lặp lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn “Vợ Nhặt” ra đời.
Lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ Nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã có công khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ.
Trong một lần phát biểu, Kim Lân đã từng nói “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới cuộc sống, vẫn hi vọng, vẫn tin tưởng vào tương lại. Họ vẫn muốn sống, “sống cho ra con người”. Đó chính là tình người và niềm hi vọng về cuộc sống về tương lai của những con người đang kề cận với cái chết. Bằng cách dẫn truyện, xây dựng lên tình huống “nhặt vợ” tài tình kết hợp với khả năng phân tích diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế và sử dụng thành công ngôn ngữ nông dân, ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự chọn lọc kĩ lưỡng, nhà văn đã tái hiện lại trước mắt chúng ta một không gian đói thật thảm hại, thê lương.
Trong đó ngổn ngang những kẻ sống người chết, những bóng ma vật vờ, lặng lẽ giữa tiếng khóc hờ và tiếng gào thét gửi gắm trong không gian tối đen như mực ấy những mầm sống đang cố vươn đến tương lai, những tình cảm chân thành, yêu thương bình dị nhưng rất đỗi cao quý ấy và nhà văn đã để những số phận như anh Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ được thăng hoa trước ngọn cờ đỏ phấp phới cùng đám người đói phá kho thóc của Nhật ở cuối thiên truyện.
Có thể nói rằng Kim Lân đã thực sự xuất sắc khi dựng lên tình huống “nhặt vợ” của anh cu Tràng. Tình huống ấy là cánh cửa khép mở để nhân vật bộc lộ nét đẹp trong tâm hồn mình. Dường như trong đói khổ người ta dễ đối xử tàn nhẫn với nhau khi miếng ăn của một người chưa đủ thì làm sao có thể đèo bồng thêm người này người kia. Trong tình huống ấy, người dễ cấu xé nhau, dễ ích kỉ hơn là vị tha và người ra rất dễ đối xử tàn nhẫn, làm cho nhau đau khổ. Nhưng nhà văn Kim Lân lại khám phá ra một điều ngược lại ở các nhân vật anh cu Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ.
Chúng ta từng kinh hãi trước “xác người chết đói ngập đầy đường”, “người lớn xanh xám như những bóng ma”, trước “không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi gây của xác người”, từng ớn lạnh trước “tiếng quạ kêu gào thảm thiết” ấy nhưng lạ thay chúng ta thật không thể cầm lòng xúc động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình thường, dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và của người vợ Tràng nữa. Một thanh niên của cái xóm ngụ cư ấy như Tràng, một con người – thân xác vạm vỡ, lực lưỡng ấy dường như ngờ nghệch thô kệch và xấu xí ấy lại chứa đựng biết bao nghĩa tình cao đẹp.
“Cái đói đã tràn vào xóm tự lúc nào”, vậy mà Tràng vẫn đèo bòng thêm một cô vợ trong khi anh không biết cuộc đời phía trước mình ra sao. Tràng đã thật liều lĩnh. Và ngay cô vợ Tràng cũng thế. Hai cái liều ấy gặp nhau kết tụ lại thành một gia đình. Điều ấy thật éo le và xót thương vô cùng. Và dường như lúc ấy trong con người của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng yêu thương chân thành. Và dường như hắn đang ngầm chứa một ao ước thiết thực về sự đầm ấm của tình cảm vợ chồng, của hạnh phúc lứa đôi. Hành động của Tràng dù vô tình, không có chủ đích, chỉ tầm phơ tầm phào cho vui nhưng điều ấy không hề mở cho ta thấy tình cảm của một con người biết yêu thương, cưu mang, đùm bọc những người đồng cảnh ngộ.
Như một lẽ đương nhiên, Tràng đã rất ngỡ ngàng, hắn đã “sờ sợ”, “ngờ ngợ”, “ngỡ ngàng” như không phải nhưng chính tình cảm vợ chồng ấy lại củng cố và nhen nhóm ngọn lửa yêu thương và sống có trách nhiệm với gia đình trong hắn. Tình nghĩa vợ chồng ấm áp ấy dường như làm cho Tràng thay đổi hẳn tâm tình. Từ một anh chàng ngờ nghệch, thô lỗ, cọc cằn, Tràng đã sớm thay đổi trở thành một người chồng thật sự khi đón nhận hạnh phúc gia đình. Hạnh phúc ấy dường như một cái gì đó “ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có một bàn tay vuốt nhẹ sống lưng”. Tình yêu, hạnh phúc ấy khiến “trong một lúc Tràng dường như quên hết tất cả, quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả những tháng ngày qua”. Và Tràng đã trở dậy. Hắn có những thay đổi rất bất ngờ nhưng rất hợp logic. Những thay đổi ấy không có gì khác ngoài tâm hồn đôn hậu, chất phác và giàu tình yêu thương hay sao?
Trong con người của Tràng khi trở dậy sau khi chào đón hạnh phúc ấy thật khác lạ. Tràng không là anh Tràng ngày trước nữa mà giờ đây đã là một người con có hiếu, một người chồng đầy trách nhiệm dù chỉ trong ý nghĩ. Thấy mẹ chồng nàng dâu quét tước nhà cửa, hắn đã bừng bừng thèm muốn một cảnh gia đình hạnh phúc. “Hắn thấy yêu thương căn nhà của hắn đến lạ lùng”, “hắn thấy mình có trách nhiệm hơn với vợ con sau này”. Hắn cũng xăm xắn ra sân dọn dẹp nhà cửa. Hành động cử chỉ ấy của Tràng đâu chỉ là câu chuyện bình thường mà đó là sự chuyển biến lớn. Chính tình yêu của người vợ, tình mẹ con hoà thuận ấy đã nhen nhóm trong hắn ước vọng về hạnh phúc, niềm tin vào cuộc sống sẽ thay đổi khi hắn nghĩ đến đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới. Rồi số phận, cuộc đời hắn, của vợ hắn và cả người mẹ của hắn nữa sẽ thay đổi. Hắn tin thế.
Nạn đói ấy không thể ngăn cản được ánh sáng của tình người. Đêm tố ấy rồi sẽ qua đi để đón chờ ánh sáng cuộc sống tự do đang ở phía trước sức mạnh của thời đại. Một lần nữa, Kim Lân không ngần ngại hạnh phúc, niềm tin ấy trong các nhân vật của mình. Người vợ nhặt làm thay đổi cuộc sống của xóm ngụ cư nghèo, tăm tối ấy, đã làm cho những khuôn mặt hốc hác, u tối của mọi người rạng rỡ hẳn lên. Từ con người chao chát chỏng lọn đến cô vợ hiền thục, đảm đang là một quá trình biến đổi. Điều gì làm thị biến đổi như thế?
Đó chính là tình người, là tình thương yêu. Thị tuy theo không Tràng về chỉ qua bốn bát bánh đúc và hai câu nói tầm phơ tầm phào của Tràng nhưng chúng ta không khinh miệt thị. Nếu có trách thì chỉ có thể hướng vào xã hội thực dân phong kiến đã bóp nghẹt quyền sống của con người. Thị xuất hiện không tên tuổi, không quê quán, trong tư thế “vân vê tà áo rách bợt bạt”, điệu bộ trông thật thảm hại nhưng chính con người ấy lại gieo mầm sống cho Tràng, làm biến đổi tất cả, từ không khí xóm ngụ cư đến không khí gia đình. Thị đã đem đến một luồng sinh khí mới, sinh khí ấy chỉ có được trong con người thị dung chứa một niềm tin, một ước vọng cao cả vào sự sống vào tương lai.
Thị được miêu tả khá ít song đó lại là nhân vật không thể thiếu cho tác phẩm. Thiếu thị, Tràng vẫn chỉ là anh cu Tràng ngày xưa, bà cụ Tứ vẫn lặng thầm trong đau khổ, cùng cực. Kim Lân cũng thật thành công khi xây dựng nhân vật này để góp thêm tiếng lòng ca ngợi sức sống của vẻ đẹp tình người, niềm tin vào cuộc đời phía trước trong những ngày con người đói khổ ấy. Và thật ngạc nhiên, khi nói về ước vọng ở tương lại, niềm tin vào hạnh phúc, vào cuộc đời người ta dễ nghĩ đến tuổi trẻ như Tràng và người vợ nhưng Kim Lân lại khám phá ra một nét đẹp độc đáo vô cùng: tình cảm, ước vọng ở cuộc đời lại được tập trung miêu tả khá kĩ ở nhân vật bà cụ Tứ.
Đến nhân vật này, Kim Lân tỏ rõ bút pháp miêu tả tâm lý nhân vật. Bà cụ Tứ đến giữa câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vật này, tác phẩm sẽ không có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tứ vào trong tác phẩm, Kim Lân đã cho chúng ta thấy rõ hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói. Bao giờ cũng thế, các nhà văn muốn nhân vật nổi bật cá tính của mình thường đặt nhân vật ấy vào tình thế căng thẳng. Ở đó dĩ nhiên phải có sự đấu tranh không ngừng không những giữa các nhân vật mà độc đáo hơn là ngay trong chính nội tâm của mỗi nhân vật ấy. Bà cụ Tứ là một điển hình. Việc Tràng lấy vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức người mẹ nghèo vốn thương con ấy. Bà ngạc nhiên ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một người đàn bà trong nhà mình mà lâu nay và có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ ngàng, ngạc nhiên bà cụ đã “cúi đầu nín lặng”.
Cử chỉ, hành động ấy chất chứa bao tâm trạng. Đó là sự đan xen lẫn lộn giữa nỗi tủi cực, nỗi lo và niềm vui nỗi buồn cứ hoà lẫn vào nhau khiến bà thật căng thẳng. Sau khi thấu hiểu mọi điều bà nhìn cô con dâu đang “vân vê tà áo rách bợt bạt” mà lòng đầy xót thương. Bà thiết nghĩ “người ta có gặp bước khó khăn này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ”. Và thật xúc động, bà cụ đã nói, chỉ một câu thôi nhưng sâu xa và có ý nghĩa vô cùng “Thôi, chúng mày đã phải duyên phải kiếp với nhau thì u cũng mừng lòng”.
Đói khổ đang vây lấy gia đình bà, cuộc sống của bà sẽ ra sao khi mình đang ngấp nghé trước vực thẳm của cái chết. Nhưng trong tâm thức người mẹ nghèo ấy, đói khổ không phải là một vật cản lớn. Đói rét thật nhưng trong lòng bà cụ vẫn sáng lên tấm lòng yêu thương chân thành. Bà thương con, thương dâu và thương cho chính bản thân mình. Bà cụ Tứ từ những nỗi lo, nỗi tủi cực về gia cảnh vẫn không ngừng bùng cháy lên ngọn lửa của tình người. Bà đang giang tay đón nhận đứa con dâu lòng đầy thương xót, trong tủi cực nhưng vẫn ngầm chứa một sức sống thật mãnh liệt. Chính ở người mẹ nghèo khổ ấy, ngọn lửa của tình người, tình thương yêu nhân loại bùng cháy mạnh mẽ nhất. Trong bóng tối của đói nghèo đang hùng hổ vây quanh, bà lão vẫn gieo vào lòng những con mình niềm tin về cuộc sống. Bà nhắc đến việc Tràng nên chuẩn bị một cái phên nuôi gà, rồi việc sinh con đẻ cái, bà lão nói toàn chuyện vui trong bữa cơm ngày đói thật thảm hại. Bà đã đón nhận hạnh phúc của các con để tự sưởi ấm lòng mình.
Đặc biệt chi tiết nồi cám ở cuối thiên truyện thể hiện khá rõ ánh sáng của tình người. Nồi chè cám nghẹn * cổ và đắng chát ấy lại là món quà của một tấm lòng đôn hậu chất chứa yêu thương. Bà lão “lễ mễ” bưng nồi chè và vui vẻ giới thiệu “Chè khoán đấy. Ngon đáo để cơ”. Ở đây nụ cười đan xen lẫn nước mắt. Bữa cơm gia đình ngày đói ở cuối thiên truyện không khỏi làm chạnh lòng chúng ta, một nỗi xót thương cay đắng cho số phận của họ song cũng dung chứa một sự cảm phục lớn lao ở những con người bình thường mà đáng quý.
Kim Lân bằng nghệ thuật viết văn già dặn, vững vàng đã đem đến một chủ đề mới trong đề tài về nạn đói. Nhà văn đã khẳng định ánh sáng của tình người thật thành công ở ba nhân vật. Điều làm chúng ta trân trọng nhất chính là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống một cách mạnh mẽ nhất ở nhưng thân phận đói nghèo, thảm hại kia. Ba nhân vật: Tràng, vợ Tràng và bà cụ Tứ cùng những tình cảm, lẽ sống cao đẹp của họ chính là những điểm sáng mà Kim Lân từng trăn trở trong thời gian dài để thể hiện sao cho độc đáo một đề tài tâm lý nhân vật, khả năng dựng truyện và dẫn truyện của Kim Lân – một nhà văn được đánh giá là viết ít nhưng tác phẩm nào cũng có giá trị là vì lẽ đó.
“Cái đẹp cứu vớt con người” (Đôxtôiepki). Vâng Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân thể hiện rõ sức mạnh kì diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là con nguồn mạch giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm. Ông đã có đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề tài nạn đói nói riêng một quan niệm mới về lòng người và tình người. Đọc xong thiên truyện, dấu nhấn mạnh mẽ nhất trong tâm hồn người đọc chính là điểm sáng tuyệt vời nhất.
Nghị luận Vợ nhặt (mẫu 5)
Nạn đói khủng khiếp năm 1945 đã khiến cho nhân dân ta rơi vào tình cảnh vô cùng thê thảm. Tình cảnh ấy được các nhà văn tái hiện chân thực trong những sáng tác của mình. Nhà văn Kim Lân cũng là một trong số đó. Ông đã khắc họa số phận của những người nông dân qua tác phẩm “Vợ nhặt” bằng một lòng thương cảm sâu sắc.
Vợ nhặt là một trong số truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được ông viết sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn dở dang và sau đó bị thất lạc bản thảo. Đến năm 1954, Kim Lân đã viết lại tác phẩm này dựa vào một phần truyện cũ và được in trong tập “Con chó xấu xí” (1962). Truyện tố cáo tội ác diệt chủng của bọn thực dân, phát xít đồng thời cũng khẳng định niềm khát khao hạnh phúc cùng niềm tin mãnh liệt của nhân dân lao động vào sự sống và tương lai phía trước.
Tác phẩm có một nhan đề thật lạ nhưng cũng hết sức hấp dẫn, gây sự chú ý cho bạn đọc. Theo Kim Lân, “nhặt” có nghĩa là nhặt nhạnh, lựa chọn một cách ngẫu nhiên. Vợ nhặt là vợ theo không, không cưới xin, lễ nghi đàng hoàng, tử tế. Thông thường, người ta chỉ nhặt cọng rơm, cọng rác chứ không ai nhặt được vợ. Trong hoàn cảnh này, thân phận con người rẻ rúng hơn bao giờ hết. Kim Lân đã xây dựng một tình huống truyện bất ngờ nhưng cũng đầy nghịch cảnh, bi hài. Giữa nạn đói, giữa lúc thân mình còn chưa biết có lo nổi hay không thì anh cu Tràng lại nhặt được vợ. Chỉ bằng vài câu nói đùa, bốn bát bánh đúc mà một anh chàng xấu trai, nghèo khổ lấy được vợ. Và cũng có thể do hoàn cảnh đói khát đến cùng quẫn mà thị chịu theo không Tràng. Đây quả là một sự éo le khi đèo bòng thêm một người giữa nạn đói. Cô dâu đã xuất hiện cùng Tràng vào buổi chiều “xác xơ”, “heo hút” trước ánh mắt ngạc nhiên của biết bao nhiêu người dân xóm ngụ cư. Thậm chí có người còn lo lắng thay cho anh: “Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không”?
Nổi bật giữa ranh giới của sự sống và cái chết là hình ảnh anh cu Tràng, bà cụ Tứ và người vợ theo không Tràng. Họ đã cưu mang, đùm bọc nhau cùng vượt qua sự khắc nghiệt của hoàn cảnh. Nhân vật anh cu Tràng xuất hiện giữa một không gian u ám, đầy tử khí vì “người chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Anh được miêu tả là một người ngốc nghếch nên thường bị đám trẻ con xóm ngụ cư trêu ghẹo. Gia cảnh của Tràng có nhiều sự bất hạnh bởi anh là dân xóm ngụ cư, sống cùng với người mẹ già. Vì cái nghèo đeo đuổi nên dù đã nhiều tuổi nhưng anh chưa lấy được vợ. Oái oăm thay, anh cu Tràng lại có vợ ngay trong nạn đói. Đây là một niềm vui lớn đối với anh khiến mặt anh “có một vẻ gì phớn phở khác thường” và “tủm tỉm cười nụ một mình”, “hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Lấy vợ là việc hệ trọng của đời người, cần có sự chuẩn bị từ trước và hai người đến với nhau bằng tình yêu của hai trái tim đồng điệu. Nhưng anh cu Tràng và người vợ nhặt không có cưới xin đường hoàng, lễ nghi tử tế. Họ gặp nhau rất tình cờ và đến với nhau cũng không phải vì tình yêu đôi lứa. Họ gặp nhau và gắn bó với nhau bởi phận nghèo.
Sự xuất hiện của người vợ nhặt trong cuộc đời anh cu Tràng đã khiến tính nết của anh thay đổi. Từ một con người ngộc nghệch, anh trở thành một người có trách nhiệm, biết chăm lo cho gia đình. Tràng rất ga lăng trong việc sửa soạn cho người vợ nhặt trước khi đưa nàng về làm dâu. Anh đưa thị vào chợ tỉnh rồi “bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về”. Không những thế, anh còn mua hai hào dầu thắp. Tràng đã chuẩn bị cả về vật chất và tinh thần cho cuộc sống mới khá đầy đủ. Khi những ánh mắt của người dân xóm ngụ cư đổ dồn về phía anh và người vợ nhặt thì anh “lấy vậy làm thích ý lắm”. Anh đã không kìm nén được niềm hạnh phúc khi có vợ nên đã bộc lộ nó qua “cái mặt cứ vênh lên tự đắc”.
Mấy ai có đủ dũng cảm để đón nhận hạnh phúc của mình ngay giữa nạn đói giống anh cu Tràng? Anh đã giới thiệu với bà cụ Tứ một cách đầy đủ về cái duyên, cái số của mình với người vợ nhặt: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải kiếp với nhau…Chẳng qua nó cũng là cái số cả”. Sự kiện thị theo không Tràng về khiến anh “ngỡ ngàng như không phải”. Nhưng chính sự kiện hệ trọng ấy lại khiến lòng anh tràn ngập một nguồn vui sướng, phấn chấn. Anh cu Tràng thấy mình “nên người” và “có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Hạnh phúc đến với anh hết sức éo le, bất ngờ nhưng cũng vô cùng thiêng liêng. Tràng đã vượt lên trên hiện thực đói khát để đón lấy thứ hạnh phúc bình dị, trần thế. Anh đã trở nên chín chắn, trưởng thành hơn từ trong suy nghĩ đến hành động để có thể chăm sóc tốt cho gia đình của mình.
Việc Tràng có vợ không chỉ gây bất ngờ cho những người dân xóm ngụ cư mà còn gây bất ngờ cho cả bà cụ Tứ – mẹ của anh. Bà rất ngạc nhiên khi có người đàn bà “đứng ngay đầu giường thằng con mình” và “chào mình bằng u”. Đó cũng là tâm lí chung của các bà mẹ khi rơi vào hoàn cảnh như vậy. Sau khi nghe Tràng giới thiệu người vợ nhặt thì “lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán xót thương cho số kiếp đứa con mình” rồi “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Bà lo lắng không biết “chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”. Bà hiểu và thương cảm cho thân phận của nàng dâu mới, cũng nhờ vậy mà con bà mới có được vợ. Chỉ cần hai vợ chồng hòa thuận, bảo ban nhau làm ăn bà cũng mừng lòng. Bà xót thương cho tình cảnh của người vợ nhặt. Đó là lòng cưu mang, là sự đùm bọc lẫn nhau của những người cùng cảnh ngộ. Bà cụ Tứ thực sự là một người mẹ có tấm lòng bao dung và vị tha cao cả.
Bà có niềm tin vào tương lai và có nghị lực sống mãnh liệt. Điều ấy được thể hiện trong những suy nghĩ, lời nói, hành động của bà. Bà đã an ủi các con rằng: “Rồi ra may mà ông giời cho khá”, “ai giàu ba họ, ai khó ba đời” để động viên các con cố gắng làm ăn, lo cho tương lai. Sáng hôm sau, bà cảm thấy “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác hẳn ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Trong bữa cơm sáng, bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng sau này. Bà nói với anh cu Tràng khi nào có tiền thì mua lấy đôi gà và khen món chè khoán ngon. Thực chất đây là món cháo cám đắng chát, bà khen ngon như để an ủi chính bản thân mình cũng như để an ủi các con và giấu đi giọt nước mắt tủi hờn. Chính bà là người truyền niềm tin, sức sống mới cho đôi vợ chồng trẻ. Sự lạc quan, niềm tin vào tương lai tươi sáng của bà cụ Tứ đã trở thành ánh sáng, trở thành điểm tựa tâm hồn cho những đứa con.
Bên cạnh anh cu Tràng và bà cụ Tứ, nhà văn Kim Lân đã xây dựng thành công nhân vật người vợ nhặt. Đây là nhân vật điển hình cho số phận của người phụ nữ trong nạn đói năm 1945. Ngay cả một cái tên riêng người phụ nữ ấy cũng không có được. Nhân vật này được tác giả gọi là “thị”, một đại từ nhân xưng chỉ chung những người phụ nữ khác cũng như ngầm chỉ số phận chung của họ trong nạn đói. Kim Lân đã khắc họa ngoại hình của thị bằng tất cả nỗi xót xa của người trong cuộc. Thị “rách quá”, “áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”… khiến anh cu Tràng không nhận ra. Thị không có việc làm, ngồi ở cửa nhà kho nhặt hạt rơi hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm. Vì câu hò: “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này! Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!” mà thị đã “lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng”. Đây cũng là duyên cớ để hai người gắn kết cuộc đời mình với nhau.
Ở con người thị có chút gì “chao chát chỏng lỏn” khi tìm cách ăn vạ anh cu Tràng. Thị quên cả ý tứ cần có của người phụ nữ để “sà xuống”, “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì” rồi “cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng”. Tuy “sưng sỉa” là vậy nhưng ẩn sâu trong người vợ nhặt là vẻ đẹp mang tính truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Thị chỉ theo anh cu Tràng về nhà khi biết anh chưa có vợ. Trên đường đi về, thị rón rén, e thẹn, thị ngượng nghịu, “chân nọ bước díu cả vào chân kia”. Khi về đến nhà Tràng, thị cũng chỉ “ngồi mớm xuống mép giường” và lễ phép cất tiếng chào bà cụ Tứ. Thị có những sự bỡ ngỡ của nàng dâu mới khi về nhà chồng. Đứng trước “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, thị có sự thất vọng nhưng cũng chỉ “nén một tiếng thở dài”.
Người vợ nhặt đã có sự thay đổi lớn vào sáng hôm sau. Thị “hiền hậu đúng mực”, thị cùng bà cụ Tứ dọn dẹp lại nhà cửa và sửa soạn bữa cơm đầu tiên đánh dấu cuộc đời làm dâu của mình. Dù món chè khoán có đắng chát thì thị “vẫn điềm nhiên đưa vào miệng” mà không một lời than vãn. Thị chấp nhận cuộc sống nghèo khổ ấy. Niềm tin vào cuộc sống đã khiến thị theo không anh cu Tràng về làm vợ. Nhờ có anh cu Tràng và bà cụ Tứ mà cuộc đời thị được cứu giúp. Qua tác phẩm “Vợ nhặt”, Kim Lân đã thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm bộc lộ niềm thương cảm, xót xa đối với cuộc sống con người, đồng thời cũng lên án tội ác diệt chủng của thực dân Pháp khiến hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.
Chính vì hoàn cảnh đói khát ấy mà tác giả đã xây dựng nên một tình huống truyện éo le, độc đáo. Kim Lân đã nâng niu, trân trọng khát vọng sống của con người. Nếu anh cu Tràng khao khát hạnh phúc gia đình thì người vợ nhặt lại khao khát được sống. Bà cụ Tứ tuy đã già nhưng lại có niềm tin và nghị lực sống mãnh liệt, trở thành điểm sáng trong tác phẩm. Giá trị nhân đạo của tác phẩm của còn được thể hiện ở lòng tin sâu sắc về nhân phẩm, lòng nhân hậu của con người, tiêu biểu là nhân vật anh cu Tràng và bà cụ Tứ. Dù đối mặt với nạn đói, với ranh giới mỏng manh của sự sống và cái chết nhưng họ vẫn đùm bọc, cưu mang người cùng cảnh ngộ.
Có thể nói, đây là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam với lối kể chuyện hấp dẫn cùng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật khá tinh tế. Trải qua hơn một nửa thế kỉ nhưng “Vợ nhặt” vẫn giữ một vị trí nhất định trong nền văn học dân tộc và tạo được những ấn tượng riêng trong lòng bạn đọc bao thế hệ.
Nghị luận Vợ nhặt (mẫu 6)
Văn học chính là lăng kính chủ quan, phản ánh hiện thực một cách khách quan, chính xác nhất. Bởi vậy mà nhà văn Kim Lân đã dùng ngòi bút của mình để phác họa thành công bức tranh cuộc sống, sinh hoạt của người nông dân trong nạn đói năm Ất Dậu qua tác phẩm “Vợ nhặt”. Nhà văn đã đem vào thiên truyện của mình một điểm sáng mới, đó là niềm tin, niềm hi vọng vào một tương lai tốt đẹp dù hiện tại có khó khăn đến nhường nào.
Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện ngắn, ngòi bút của ông thật sắc sảo khi tập trung miêu tả những phong tục tập quán và đời sống làng quê với những “thú vui đồng quê hay phong lưu đồng ruộng”. “Vợ nhặt” là tác phẩm xuất sắc được in trong tập “Con chó xấu xí” của nhà văn, viết về người nông dân trong tình cảnh thê thảm của nạn đói với bản chất tốt đẹp, lương thiện. Bằng khả năng sáng tạo của mình, nhà văn đã thành công ở nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật và hàng loạt các biện pháp nghệ thuật đặc sắc khác khi xây dựng nhân vật của mình.
Ngay từ nhan đề của tác phẩm, nhà văn đã để lại chúng ta những điều tò mò mới mẻ về cuộc sống của những con người bần hàn trong cái đói tưởng chừng như thảm họa. Với Kim Lân, “nhặt” là một hành động thu lượm những thứ rơi vãi ở dưới đất, những vật có giá trị không cao. Thế nhưng ở đây, hành động ấy lại được gắn liền với hình ảnh của người “vợ”. Đó chính là sự trân trọng của tác giả đối với nhân vật của mình bởi người vợ luôn có một vị trí quan trọng trong gia đình. Thế nhưng trong hoàn cảnh này, thân phận của con người lại rẻ rúng hơn bao giờ hết, chỉ cần vài câu nói bông đùa của anh cu Tràng mà người phụ nữ đó đã theo không Tràng về nhà và trở thành người “vợ nhặt”. Tất cả những điều đó đã làm nên một nhan đề độc đáo, gây ấn tượng mạnh, thể hiện thảm cảnh của người dân trong nạn đói năm 1945, bộc lộ sự cưu mang, khát vọng sống, và niềm tin của con người trong cảnh khốn cùng.
Chủ đề của tác phẩm không chỉ được thể hiện ở nhan đề mà nó còn được thể hiện thông qua tình huống truyện. Có nhà văn đã từng nói: “Tình huống truyện chính là thứ nước rửa ảnh để thông qua đó nhân vật nổi hình nổi mảng”. Tình huống truyện là nghệ thuật sắp xếp, tổ chức các chi tiết, sự kiện trong tác phẩm, qua đó bộc lộ tính cách, số phận nhân vật góp phần thể hiện tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Truyện ngắn “Vợ nhặt” đã đem đến cho chúng ta một tình huống truyện vừa éo le, lại vừa bi hài. “Vợ nhặt” được bắt đầu ở thời điểm cái đói mà tác giả gọi là hiểm họa tràn đến. Trong không gian thê thảm của nạn đói, tình huống Tràng lấy vợ đã tạo nên khung cảnh vừa bi vừa hài, chỉ mấy câu nói bông đùa mà nào ngờ lấy được vợ thật. Tràng xấu trai lại ngờ nghệch, nay lại có người theo về cho ta thấy nghịch cảnh không biết nên cười hay nên khóc. Tình huống truyện éo le trên đã cho ta thấy tính nhân bản và tình cảm nhân đạo của tác phẩm. Hoàn cảnh đã làm thay đổi con người, tố cáo chế độ thực dân phong kiến đã đẩy con người vào bước đường cùng.
Mở đầu tác phẩm, nhà văn đã phác họa nhân vật anh cu Tràng cũng là nhân vật chính của phẩm được xuất hiện giữa một không gian đầy u ám, tử khí vì “người chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người chết”. Tràng là một người nông dân có cuộc sống nghèo khổ nhưng lại có tính thương người, luôn khao khát một mái ấm gia đình và luôn có hi vọng vào một tương lai tươi sáng.
Anh cu Tràng là một người nông dân có cuộc sống nghèo khổ được thể hiện ngay ở cái tên gọi mà tác giả đặt cho. Tràng không tội nghiệp đến mức không có một cái tên thế nhưng cái tên Tràng lại gợi lên bao điều lam lũ, khó nhọc bởi đó cũng là tên của một dụng cụ lao động. Tràng không đến mức quá tiều tụy thế nhưng lại được hóa công gọt đẽo rất sơ sài: “Hai con mắt gà gà đắm vào bóng chiều”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, “bộ mặt thô kệch”, “cái đầu trọc nhẵn”, “cái lưng to rộng”. Qua cách miêu tả của Kim Lân, ta thấy Tràng kết tinh được cái phần tự nhiên, hoang dại của con người. Tràng hay “ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch”, “vừa đi vừa nói nhảm”, trở thành “đối tượng bông đùa của những đứa trẻ xóm ngụ cư”, tính tình thì “ngốc nghếch” . Hoàn cảnh sống của Tràng cũng chẳng dư dả gì. Nơi ở là “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, “những niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất”. Những chi tiết ấy đã cho thấy cuộc sống thiếu thốn, nghèo khổ của hai mẹ con Tràng.
Ông cha ta đã dạy ta đừng nên “nhìn mặt mà bắt hình dong” thật đúng như vậy. Tuy Tràng có vẻ bề ngoài thô kệch, tính tình ngốc nghếch thế nhưng ẩn sâu trong tâm hồn Tràng vẫn chứa đựng biết bao hạt ngọc của tâm hồn. Tràng là người nhân hậu và giàu tình thương người. Thấy người đàn bà đói, Tràng đã cho ăn “một chặp bốn bát bánh đúc” bởi anh không nhẫn tâm từ chối khi người ta quá đói. Đó là một việc làm thật đáng quý, thể hiện truyền thống “thương người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá rách” của dân tộc ta. Khi người vợ nhặt quyết theo Tràng, đây không phải là chủ tâm của Tràng tìm vợ mà thực tế, Tràng lấy vợ vì lòng thương người, vì một con người còn đói khát hơn cả mình. Bên cạnh tấm lòng nhân hậu, Tràng còn là người luôn khát khao hạnh phúc gia đình, hạnh phúc lứa đôi. Tràng có ý thức chăm sóc người phụ nữ của mình: “Hôm ấy hắn đưa thị xe bò về rồi mua hai hào dầu để thắp sáng ngôi nhà lạnh lẽo”. Những việc làm đó đã chứng tỏ Tràng rất trân trọng vợ mình. Tràng thật sự sung sướng và hạnh phúc khi có người vợ nhặt.
Đi bên cạnh người vợ “rách như tổ đỉa”, Tràng không thấy xấu hổ mà còn rất “phớn phở”. Vẻ mặt ấy chính là sự xúc động của nhân vật trước tình huống éo le nhặt được vợ. Không gian trên đường rước dâu ảm đạm thê lương nhưng niềm vui của Tràng đã lấn át đi tất cả. Anh muốn làm cho vợ mình được vui, “có lúc muốn thân mật nhưng không dám xuồng xã, muốn bày tỏ tình cảm với vợ nhưng lại lúng ta lúng túng, tay nọ xoa vào tay kia”. Tràng nâng niu, trân trọng hạnh phúc mình có được: “Trong một lúc, Tràng dường như quên hết cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa”. “Tràng cảm nhận thấy cái mới mẻ, mơn man khắp da thịt Tràng”. Đó chính là hiện diện của tình yêu, niềm hạnh phúc mà Tràng đang khao khát.
Đêm buông xuống, hạnh phúc của vợ chồng Tràng được bao bọc bởi bóng tối, bởi âm thanh tiếng hờn khóc tỉ tê từ những gia đình có người chết đói. Tràng vẫn cảm thấy sự kiện mình có vợ là quan trọng và cần nâng niu hơn cái đói đang hoành hành. Nhà có thêm người mới, Tràng đã thắp đèn lên cho sáng sủa, để xua tan đi cái tối, cái thê thảm của của những kiếp người leo lét. Ngọn đèn dầu sáng lên chính là hiện thân cho khát vọng sống, là ánh sáng để đấu tranh với bóng tối, giữ gìn sự sống để đấu tranh với cái chết. Phải chăng, tình yêu là vũ khí lợi hại để có thể khiến Tràng thay đổi hoàn toàn vào buổi sáng ngày hôm sau. Trước đây, Tràng sống dường như không quan tâm đến mình, sống tạm bợ cho qua ngày, không có ý thức chuẩn bị cho ngày mai. Kể từ khi có vợ, tâm lí anh khác hẳn: “Cảnh tượng thật đơn giản nhưng đối với hắn thật thấm thía và cảm động”. Tất cả được Tràng nhìn bằng ánh sáng mới, bằng con mắt mới, bằng trái tim của một con người đang hạnh phúc, đang yêu và đang được yêu. Hạnh phúc đã đem đến cho Tràng ý thức làm người, “Tràng thấy mình nên người từ khi có vợ”.
Trước đây, anh vô tâm vô tính, giờ có ý thức về bổn phận của mình hơn, mình cần có trách nhiệm với gia đình này. Hình ảnh của Tràng trong ngôi nhà đầm ấm, hòa hợp khiến cho ai cũng thay đổi. Bà cụ Tứ trở nên tươi tỉnh khác hẳn ngày thường, người vợ nhặt đúng mực người vợ hiền, dâu thảo, Tràng đã nên người và làm nổi bật vẻ đẹp của hạnh phúc. Dù hiện tại có đói khổ nhưng Tràng vẫn luôn giữ một niềm lạc quan, yêu đời, luôn tin vào tương lai tươi sáng. Trong bữa ăn, chỉ có mỗi nồi cháo cám chát đắng, Kim Lân đã để cho nhân vật bàn tán về việc Việt minh phá kho thóc của Nhật chia cho người đói. Trong tâm trí Tràng lúc bấy giờ hiện lên hình ảnh đám người đói và lá cờ cỏ sao vàng đang phấp phới tung bay trên nền trời xanh thẳm. Tràng nghĩ đến ánh sáng, nghĩ đến niềm vui, niềm tin đổi đời vào cách mạng. Tràng có cảm giác nuối tiếc khi mình tránh đi con đường khác, ý thức hối hận khi không hòa mình vào đám người đói theo Việt minh, điều đó cho thấy ước mơ vươn lên để đổi đời gắn liền với khát vọng sống của người nông dân Việt Nam đương thời.
Trong ba nhân vật, người vợ nhặt là nhân vật được nói đến ít nhất. Thực ra, nếu không có nhân vật người “vợ nhặt” thì nội dung và nghệ thuật của tác phẩm bị ảnh hưởng rất nhiều bởi đây là nhân vật làm nên giá trị nội dung và tư tưởng của tác phẩm, có vai trò quyết định đến sự hình thành các hình thức nghệ thuật khác. Người vợ nhặt là một nhân vật không có tên gọi, lai lịch, gốc gác, ngoại hình tiều tụy nhưng là một người vợ đúng mực, một người con dâu hiếu thảo và là người đem đến niềm vui, niềm lạc quan cho mọi người.
Người vợ nhặt là một nhân vật đặc biệt, nhân vật này không có tên, được gọi là “thị”, “người đàn bà”, “người con dâu”. Đây là cách gọi khiến cho tính khái quát ngày càng rộng. Ta hiểu thời bấy giờ không chỉ có một mà có muôn vàn người đàn bà cùng rơi vào cảnh ngộ đáng thương như thế. Về lai lịch, gốc gác, người đàn bà cũng chẳng được giới thiệu cụ thể, cũng chẳng ai biết thị đến từ đâu, chỉ biết rằng chị “ngồi vêu ra ở cửa kho, nhặt hạt rơi, hạt vãi hay ai có việc gì gọi đến thì làm”. Người vợ nhặt không có quê hương, không có quá khứ, là hiện thân cho một kiếp người lênh đênh, trôi dạt trong thảm họa đói khát, không lưu giữ được một chút gì về sự tồn tại của bản thân mình.
Ngoại hình của thị được tác giả miêu tả rất tỉ mỉ: “Cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che mất đi nửa mặt”. Khi tác giả quay ngược trở lại thời gian ở lần gặp thứ hai của thị với Tràng, ta thấy thị giống như bao kẻ đói khát khác: “Hôm nay trông thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái gương mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Ngoại hình của thị trông rất tiều tụy, thị là hiện thân của những con người bần cùng đói phát phải “tha hương cầu thực”, “tối đâu là nhà, ngã đâu là giường” (Nguyễn Khải). Với những chi tiết miêu tả ngoại hình trên, nhà văn Kim Lân đã cho người đọc thấy người phụ này đã phải chịu đói nhiều ngày, sự đói khát cùng đường làm cho chị mất hết đi nét nữ tính vốn có. Điệu bộ thị “chao chát, chỏng lỏn”, lần đầu giữa lúc đang nhàn rỗi nghe câu hò buông ra của Tràng và những lời trêu ghẹo của bạn bè nhưng vì đói chị đã “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng- một người đàn ông mà chị không hề quen biết. Thị đùa giỡn với anh, liếc mắt cười tít để tạo thiện cảm với Tràng, như vậy có thể nói là vô duyên, trơ trẽn nhưng chị vẫn đẩy xe cho Tràng và chưa được ăn “cơm trắng với giò” như lời Tràng đã hứa.
Lần khác gặp lại Tràng, chị xưng xỉa trách móc “điêu, người thế mà điêu” làm cho Tràng không hiểu gì cả. Những lời thoại ấy đã chứng tỏ người phụ nữ đã cố ý lái câu chuyện để thể hiện mục đích được ăn cơm. Phải chăng sự đói khát đường cùng đã khiến chị thành kẻ táo tợn, trơ trẽn, không cần giữ danh dự, chỉ biết biến lời nói đùa thành sự thật để được ăn “cơm trắng với giò”. Khi được Tràng mời ăn, “hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên”, “thị ngồi sà xuống ăn thật, thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì, ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng”. Chính cái đói, cái khát đã thử thách nhân cách của người phụ nữ thật ghê gớm.
Nạn đói năm Ất Dậu như một cơn lũ khủng khiếp cuốn phăng đi tất cả. Vì đói, người phụ nữ ấy đã đẩy lùi sĩ diện, không lo danh dự, nhà văn không sa vào chủ nghĩa tự nhiên, không chê bai giễu cợt nhân vật mà nhà văn muốn ta hiểu một thực tế rằng miếng ăn trong cái đói que quắt nhiều khi thúc bách khiến họ quên đi cả ý tứ, không còn sĩ diện nữa, bản năng sinh tồn đã vượt lên trên tất cả. Liều lĩnh hơn khi chị chấp nhận theo không Tràng về làm vợ. Vì một câu nói đùa, người vợ nhặt biến lời rủ rê thành lời cầu hôn chính thức, biến tất cả đùa thành thật, thị theo không Tràng về nhà mà không hề biết gia cảnh, tính tình của người đàn ông ấy. Thị đã tự hạ thấp giá trị của mình đến rẻ rúng như những vật không giá trị bị vứt ngoài đường.
Tác phẩm đã thể hiện được vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ bị cái đói đe dọa, thủ tiêu, tha hóa nhưng trong thị vẫn ánh lên những phẩm chất tốt đẹp của lòng ham sống mãnh liệt, khát khao hạnh phúc gia đình, ý tứ, hiền hậu đúng mực và luôn lạc quan tin tưởng. Người vợ nhặt mang một vẻ đẹp nữ tính dịu dàng đúng mực kể từ khi theo không Tràng về nhà. Trên đường về, có lúc người vợ nhặt đã trách chồng bỏ ra hai hào để mua dầu thắp “hoang nó vừa chứ”. Lời trách móc ấy thể hiện ý thức gia đình, vun vén cuộc sống hôn nhân, bởi vậy, thị đúng là một người vợ thực sự. Cùng Tràng trên đường về nhà, thị cắp cái thúng e thẹn, bản tính nữ tính đã trở lại.
Qua một vài chi tiết miêu tả, ta thấy tâm tình của người phụ nữ này đang dần trở lại. Thị lẳng lặng nén tiếng thở dài khi nhìn thấy căn nhà lụp xụp của Tràng, đó là thái độ chấp nhận dường như chị nghĩ rằng mình không nên hỏi điều gì nữa. Khi vào đến nhà, thị “ngồi mớm ở mép giường”, đây là tư thế e thẹn, ngại ngùng, có chút rụt rè, lo âu của người con gái lần đầu tiên bước về nhà chồng trong tình huống bất lợi. Nhà văn thật tinh tế khi miêu tả được cử chỉ người phụ nữ “tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”. Nét mặt chứa đựng biết bao ngổn ngang, suy nghĩ e ngại, xót xa, tủi cực cho số phận của mình. Thế nhưng, người “vợ nhặt” ấy đã vượt lên trên hoàn cảnh để thể hiện khát vọng sống, thể hiện bổn phận làm vợ, làm con dâu của mình.
Trong đêm tân hôn, thị có những cử chỉ rất dí dỏm “ủng vào trán Tràng”, cử chỉ đó thể hiện rõ tình cảm yêu thương của thị dành cho Tràng. Sáng hôm sau, chị dậy sớm làm đủ mọi việc như một người vợ hiền tần tảo, đảm đang. Chị cùng với bà cụ Tứ “dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ”, người phụ nữ “chao chát chỏng lỏn” ấy đã thay đổi đến mức chính Tràng cũng phải ngạc nhiên “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Người vợ nhặt là người lạc quan luôn đem đến niềm vui cho mọi người. Đối với người dân xóm ngụ cư, người vợ nhặt đem đến cho họ niềm tin vào sự đổi thay. Đối với bà cụ Tứ, người “vợ nhặt” đã đem đến cho bà niềm an ủi, niềm hạnh phúc lớn lao ở cái tuổi gần đất xa trời. Bà cụ Tứ vui mừng khi thấy con cái trưởng thành, con trai mình đã có vợ bà lại nghĩ đến tương lai con cháu mình sau này. Đối với Tràng, người “vợ nhặt” đem đến niềm hạnh phúc thực sự cho Tràng.
Khi có mái ấm gia đình, Tràng thực sự thay đổi từ một người đàn ông thô kệch vụng về trở thành người có ý thức, có trách nhiệm với gia đình. Chính thị là người đầu tiên kể cho cả nhà nghe truyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang. Chị làm nảy sinh trong Tràng hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc, lá cờ đỏ tung bay phấp phới, nó gợi lên trong Tràng những khao khát về sự đổi đời. Người “vợ nhặt” đã được nhà văn khắc họa độc đáo ở việc chú trọng khắc họa hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc hiểu được tâm lí người phụ nữ. Thân phận người phụ nữ ấy có rẻ rúng, nhưng thị vẫn rất mực lạc quan, yêu đời.
Để nói về đức hi sinh, yêu thương con vô bờ bến, nhà văn đã phác họa thành công chân dung hình ảnh bà cụ Tứ hiểu biết và rất mực thương con. Người phụ nữ nghèo khổ ấy đã những thay đổi tâm trạng phức tạp khi thấy con mình “nhặt” được vợ. Tâm trạng bà thay đổi từ ngạc nhiên đến vui mừng rồi lo lắng, tủi hổ nhưng cũng vẫn rất lạc quan trước số phận. Bà cụ Tứ là một người phụ nữ nghèo khổ. Bà xuất hiện với dáng vẻ lọng khọng, gầy gò, ốm yếu. Cảnh ngộ nom thật đáng thương, bà lão nghèo khổ, già nua lại cô đơn vì chồng và con gái đã ra đi mãi mãi. Đứa con trai lớn tuổi nhưng vì nghèo khổ, thô kệch lại là người dân xóm ngụ cư nên chẳng lấy được vợ. Cuộc đời bà cụ Tứ thật đáng thương, gia cảnh lại bần hà thuộc hạng cùng đinh trong xóm ngụ cư. Ở cái độ tuổi gần đất xa trời này, bà cũng chẳng mong gì nhiều, chỉ mong cho con mình nên người và có một cuộc sống hạnh phúc.
Sự xuất hiện của người vợ nhặt đã khiến cho diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ diễn ra phức tạp. Bà ngạc nhiên khi thấy Tràng reo lên như một đứa trẻ vồn vã chào mời khác thường “bà lão phấp phỏm bước theo con đến giữa sân bà lão sững lại càng ngạc nhiên hơn”. Trong bối cảnh đói khát, bà cụ đã không tin rằng con mình lấy được vợ. Bà ngạc nhiên trước cảnh một cô gái lạ xuất hiện trong nhà mình. Kim Lân đã sử dụng nghệ thuật độc thoại nội tâm để chứng tỏ bà lão rất ngạc nhiên. Bà tự hỏi “quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con trai mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Ai thế nhỉ?”. Sự ngạc nhiên đến nỗi bà không tin vào mắt mình khi thấy người lạ trong nhà “bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà thấy mắt mình nhoèn ra thì phải”. Trái tim của người mẹ luôn nhạy cảm về chuyện riêng tư của con cái và cả chuyện dựng vợ gả chồng nhưng ở đây, bà cụ Tứ lại ngơ ngác quá lâu vì không tin vào mắt mình.
Tâm trạng ngạc nhiên của bà cụ Tứ đã thể hiện rõ tình huống truyện lạ, éo le, cảm động giữa lúc nạn đói đang hoành hành, những người nghèo khổ như mẹ con bà cụ Tứ đến nuôi thân còn không xong mà Tràng còn dám nuôi thêm một miệng ăn. Tâm trạng ngạc nhiên ấy còn hé lộ thân phận con người trong cuộc sống nghèo đói, bà phải sống trong mặc cảm, không làm tròn bổn phận của người mẹ, không lo được cho con, cũng vì nghèo nên con không lấy được vợ. Có chút ngạc nhiên nhưng bà cũng rất vui mừng khi con mình lấy được vợ.
Với gia cảnh nghèo đói thuộc hạng cùng đinh, con trai mình lại là người thô kệch, tính tình thì ngốc nghếch nay bỗng dưng có người theo không con mình về làm vợ nên bà cũng thấy ấm lòng hơn. Người mẹ nghèo ấy rất mực thương con , do vậy bà lại cảm thấy tủi và lo lắng khi nghĩ về tương lai. Khi Tràng có vợ bà cũng rất vui nhưng trong lòng lại trào lên nỗi xót thương cho số kiếp đứa con mình. Bà hiểu ra tình cảnh khốn khổ của con và gia đình mình. Con bà lấy vợ giữa lúc cái đói tràn đến xóm ngụ cư như một hiểm họa. Cuộc sống bấp bênh, khốn khó hơn bao giờ hết, thương con lại thương mình, bà cụ “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt”.
Vượt qua mọi nghi lễ thông thường, bà cụ đã chấp nhận người đàn bà xa lạ làm con dâu trước nỗi lo cho tương lai, gia đình và các con. Bà lo cho các con ở những ngày hiện tại chênh vênh. Lòng bà lão đầy những ám ảnh của quá khứ vẫn nặng trĩu đắng cay. Bà ngửi thấy “mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét kẹt”. Rồi bà nghĩ đến ông lão, đến đứa con gái út đã mất, nghĩ đến cuộc đời cực khổ của mình. Bà lo cho vợ chồng Tràng lấy nhau không biết có qua khỏi nạn đói này không. Tâm trạng của bà cụ Tứ diễn ra vô cùng phức tạp, vừa ai oán xót thương, lo lắng buồn tủi đan xen với những xáo trộn trong lòng.
Cũng như nhân vật anh cu Tràng, người “vợ nhặt” bà cụ Tứ cũng luôn vững tin vào một tương lai tốt đẹp hơn. Trong ý nghĩ bà cùng vui với triết lí giản dị sâu sắc: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”, niềm vui giản dị thực tế ấy được xuất phát từ kinh nghiệm của người dân lao động, được đúc rút từ bao đời nay. Suy nghĩ đó được bộc lộ từ ý chí vươn lên, vượt qua hoàn cảnh khó khăn của bà cụ Tứ. Vì nghĩ như vậy nên bà nói về tương lai, trong buổi sáng ngày hôm sau, bà toàn nói chuyện vui, chuyện sung sướng sau này. Bà nói về tương lai thiết thực của nhân dân lao động, từ việc nuôi gà và có một cuộc sống yên bình, ấm no.
Sáng ngày hôm sau, người mẹ nghèo ấy đã thắp lên đốm lửa của tình người, của niềm tin và hi vọng qua các hành động cụ thể: “Bà cùng con dâu thu xếp nhà cửa, quét dọn sân vườn cho sạch sẽ”, việc làm ấy được xuất phát từ niềm tin, niềm hi vọng mang tâm lí của người lao động: “Nhà cửa gọn gàng, ngay ngắn thì may mắn sẽ tới”. Bà có một sáng kiến bất ngờ đó là bổ sung một nồi “cháo cám” vào bữa ăn ngày đói như một bữa ăn mừng nhân ngày con trai lấy được vợ. Người mẹ tươi cười đon đả lặng lẽ khen ngon, dù miếng cháo cám có chát đắng trong khóe miệng nhưng bà vẫn thốt lên răng “ngon đáo để”. Điều đó toát lên tinh thần của người mẹ chấp nhận số phận với niềm vui và niềm hạnh phúc đong đầy. Hình ảnh “nồi cháo cám” ấy còn là hiện thân của tình thương yêu mà người mẹ dành cho các con.
Nhà văn đã chọn “nồi cháo cám” để làm sáng lên chất người khi niềm vui, niềm hạnh phúc của họ đang dần bị nguội tắt trước thế lực của cái đói. Chi tiết ấy tái hiện cái đói năm 1945 một cách chân thực nhất, con người phải ăn cả thức ăn của động vật để cầm cự, đấu tranh với cái chết gần kề. Tuy bà cụ Tứ chỉ xuất hiện trong một khoảnh khắc của chiều hôm trước và sáng hôm sau khi con mình dắt người “vợ nhặt” về trình diện với bà nhưng nhà văn đã đem đến cho người đọc một nhân vật có chiều dài cuộc đời và chiều sâu tâm lí với những am hiểu sâu sắc. Bà cụ Tứ chính là điển hình cho hình ảnh người mẹ nông dân nghèo khổ, từng trải, hiểu biết, nhân hậu, bao dung và rất mực thương con.
Bằng tài năng của mình với một phong cách nghệ thuật riêng biệt, nhà văn Kim Lân đã đem đến cho chúng ta một thiên truyện “Vợ nhặt”. Ngay từ nhan đề độc đáo của tác phẩm đã hé lộ cho chúng ta biết một tình huống truyện đầy đặc sắc nhưng lại hết sức éo le. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế và sâu sắc, Tràng được miêu tả rất thực tế về tâm lí, người “vợ nhặt” tâm lí hiện lên rất sinh động còn bà cụ Tứ thì tâm lí diễn ra phức tạp. Nghệ thuật trần thuật mới mẻ, ngôi kể theo cách truyền thống ở ngôi kể thứ ba, điểm nhìn trần thuật luôn luôn di chuyển, nhà văn đã để cho nhân vật tự dẫn dắt tiến trình của truyện. Giọng điệu hóm hỉnh, đôn hậu. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, nôm na. Xuất hiện nhiều chi tiết đặc sắc: Chi tiết “bát bánh đúc” cho thấy sự đói khổ có thể làm thay đổi nhân cách con người. Chi tiết “nồi cháo cám” cho thấy tình thương bao la của người mẹ và tái hiện sự thật đói khát đến mức chẳng còn gì để ăn. Chi tiết “lá cờ đỏ sao vàng” tung bay phấp phới cho thấy niềm tin của con người vào cuộc sống, khát vọng có một cuộc sống ấm no và niềm tin vào cách mạng của người nông dân lúc bấy giờ. Tất cả những đặc sắc nghệ thuật trên đã tạo nên một phong cách nghệ thuật riêng biệt của Kim Lân với sở trường truyện ngắn này.
Qua tác phẩm, ta thấy được giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực được thể hiện một cách sâu sắc. Ở giá trị nhân đạo, nhà văn đã dựng lại được bức tranh hiện thực đương thời là con người trong nạn đói năm Ất Dậu. Nhà văn trân trọng và cảm thông trước những số phận bị thảm, trước những ước mơ, những khao khát về hạnh phúc gia đình của người nông dân. Bên cạnh đó, nhà văn đã phát hiện và khẳng định được vẻ đẹp của con người, vẻ đẹp của tình người trong cơn lốc của sự đói nghèo. Và cuối cùng, nhà văn đã chỉ ra con đường cách mạng cho người nông dân, chỉ có theo cách mạng thì con người mới có thể giành lại được cuộc sống ấm no yên bình. Đối với giá trị hiện thực, nhà văn đã tái hiện được một thực trạng bi thảm của chế độ Việt Nam trước cách mạng.
Kim lân đã chọn một sự kiện lịch sử có thật để làm chủ đề cho tác phẩm của mình. Mở đầu tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc tới bối cảnh của một miền quê trong những ngày đói, bóng dáng con người toàn là chết chóc, thê lương, những bóng người “đội chiếu, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, nằm ngổn ngang khắp lều chợ”, “người chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Hiện thực cho thấy miền quê đó trong những ngày đói vô cùng xơ xác, heo hút. Những chi tiết đó đã cho thấy cái đói tràn lan như một nạn dịch. Nhà văn đã phản ánh chân thực số phận cùng quẫn của con người trong nạn đói. Kim Lân đã hướng ngòi bút vào việc khắc họa số phận cùng quẫn của con người trong nạn đói qua hình tượng người vợ nhặt. Nhân vật Tràng, bà cụ Tứ là những con người nghèo khổ, đáng thương. Truyện đã phản ánh rõ thảm cảnh của con người trong nạn đói và số phận cùng quẫn của họ trước thảm cảnh. Nhà văn đã phản ánh hiện thực cơ bản đó là lòng người dân hướng tới cách mạng. Dù hiện thực này chỉ nói thoáng qua ở đoạn cuối của tác phẩm nhưng khiến cho ta nghĩ tới sự thay đổi hiện thực cuộc sống, đó là cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Bằng tất cả tình yêu thương, sự đồng cảm, nhà văn Kim Lân đã tạo nên sự thành công trong sự nghiệp làm văn của mình qua tác phẩm “Vợ nhặt”. Nhà văn đã để lại cho chúng ta những bài học về tình yêu thương, đùm bọc giữa những con người cùng chung dòng máu Việt và một tinh thần lạc quan, yêu đời, hướng tới cách mạng. Nhà văn đã ngợi ca truyền thống “tương thân tương ái” quý báu của dân tộc Việt Nam ta. Và đặc biệt trong bối cảnh hội nhập của đất nước ta hiện nay, thế hệ trẻ chúng ta cần giữ vững quan điểm “hòa nhập nhưng không hòa tan” và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Qua tác phẩm “Vợ nhặt” nhà văn Kim Lân đã để lại dấu ấn đặc biệt trong lòng người đọc. Nhà văn đã tái hiện thành công bối cảnh nạn đói năm 1945 qua các nhân vật Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ với một niềm tin yêu, luôn hi vọng vào một ngày mai tươi sáng.
Nghị luận Vợ nhặt (mẫu 7)
Kim Lân là nhà văn của làng quê Việt Nam với cách viết chân chất, mộc mạc và những hình ảnh nhân vật điển hình cho làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu vào lòng người đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình. Tác phẩm “Vợ nhặt” là một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện thành công xã hội nghèo khổ, cùng cực, bế tắc của người nông dân. Bằng bút pháp tả thực Kim Lân đã xây dựng thành công tuyến nhân vật đại diện cho cuộc sống bần cùng giai đoạn đó.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi vào nạn đói năm 1945, đời sống nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết nham nhảm, ”người chết như nga ra, không buổi sáng nào người trong làng đi chợi, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vấn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Khung cảnh xóm ngụ cư ấy đã diễn tả được cái đói đang hoành hành, đời sống nhân dân thê thảm. Ngay từ nhan đề của tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc khám phá cuộc sống của những điều khốn khổ, bần hàn nhất. Là “vợ nhặt”, là chi tiết và là tình huống truyện thắt nút làm nên cuộc đời của từng nhân vật.
Mở đầu truyện ngắn, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…” Chỉ với vài chi tiết đó, người đọc cũng đã hình dung được diện mạo xấu xí của một anh nông dân nghèo rách mùng tơi. Từ ngày nạn đói hoành hành, đám trẻ con không buồn trêu tràng nữa, vì chúng đã không còn sức lực. Khung cảnh buồn thiu, đầy ám ảnh bao phủ lên xóm nghèo. Trong khung cảnh chiều tà, suy nghĩ của Tràng được tái hiện “hắn bước đi từng bước mệt mỏi, cái áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay. Hình như những lo lắng, cực nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”.
Với vài chi tiết tiêu biểu, Kim Lân đã vẽ lên trước mặt người đọc hình ảnh người nông dân nghèo đói, xơ xác, bộn bề lo lâu đến cùng cực. Tác giả đã thật khéo để xây dựng nên tình huống truyện độc đáo, mới lạ, làm thay đổi cuộc đời của một con người. Tình huống Tràng “nhặt” được vợ. Là “nhặt” được chứ không phải lấy được. Người đọc nhận ra sự thê thảm, bước đường cùng và đầy éo léo của con người trong xã hội bấy giờ. Hình ảnh vợ anh cu Tràng dần dần hiện ra dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn đầy ám ảnh “thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”. Một người đàn bà nghèo khổ, không còn thứ gì giá trị đi cạnh một người đàn ông nghèo khổ, cùng cực đúng là một đôi trời sinh.
Giữa cái đưa vợ “nhặt” được về nhà, Kim Lân đã xây dựng nên khung cảnh đìu hiu, ảm đảm của xóm nghèo “từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp sụp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới gốc đa, gốc gạo xù xì bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ kêu trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”. Không còn gì thê thảm và hiu hắt hơn khung cảnh chiều tàn nơi xóm nghèo như vậy. Mọi thứ dường như bị cái đói, cài nghèo đè nén đến chìm nghỉm. Bằng ngòi bút tả thực sinh động, Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc nhiều chua xót, đắng cay cho những phận nghèo long đong.
Điều đáng chú ý chính là cách những người hàng xóm hỏi thăm Tràng về người đàn bà đi bên cạnh Tràng. Thực ra thấy lạ nên người ta mới hỏi, thì cũng hiểu ra, có lẽ là vợ Tràng, “nhìn chị ta thèn thẹn hay đáo để”. Người đàn bà bắt đầu không còn chua ngoa, đanh đá nữa mà trở nên thẹn thùng khi quyết định theo Tràng về làm vợ. Làm vợ một cách bất ngờ, giữa cảnh đói như ngả rạ. Có lẽ cái nghèo đói đã đẩy hai con người đến với nhau, không phải tình yêu nhưng là tình thương. Hẳn người đọc sẽ cảm thông và xót thương cho những mảnh đời dật dờ nơi xóm ngụ cư.
Khi trở về nhà, hình ảnh bà cụ Tứ, mẹ Tràng được Kim Lân khắc họa diễn biến và sự chuyển đổi trong tâm tính thật tài tình và sâu sắc. Người đọc sẽ hiểu hơn tấm lòng một người mẹ bao dung và hiền hậu. Chi tiết “bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà, đến giữa sân bà sững lại vì thấy có một người đàn bà ở trong…” Sự băn khoăn lo lắng của bà cụ bắt đầu hiện lên. Nhưng rồi bà cũng nhận ra, cũng hiểu “bà lão cúi đầu nín lặng, bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót xa cho số kiếp con mình. Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc làm ăn nên nổi, còn mình…” Những suy nghĩ chua xót của bà lão được Kim Lân diễn tả qua một loạt động từ tình thái khiến cho cái khổ, cái đói lại vồ vập và hiển hiện rõ ràng hơn bao giờ hết.
Bà đã chấp nhận người “vợ nhặt” của con trai. Tình huống khiến người đọc nhớ mãi, hình ảnh khiến người đọc khi nhắc đến tác phẩm này đều không quên là hình ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu đầu tiên. Hình ảnh “nồi cháo cám” là hiện thân của cái đói nghèo đến cùng cực trong một gia đình “không còn gì giá trị nữa”. Bà cụ Tứ hôm nay thay đổi tâm trạng, toàn nói những chuyện vui trong nhà, vì bà muốn mang lại không khí vui tươi hơn giữa cái nghèo. Hình ảnh “nồi cháo cám” hiện lên bình dị, đầy chua xót và nước mắt của người mẹ nghèo. Ai cũng muốn có một bữa cơm đón dâu có mâm cao, cỗ đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn, “nồi cháo cám” là thứ duy nhất đong đầy yêu thương bà có thể mang lại cho con.
Đây là một chi tiết vô cùng đắt giá trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân khiến người đọc nhớ mãi. Bên cạnh đó hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện của cuối truyện ngắn đã mang đến chút niềm tin và hi vọng về một tương lai tươi sáng hơn. Bằng ngòi bút miêu tả chân thực, sinh động, cách khắc họa tâm lý nhân vật sắc sảo, độc đáo và cốt truyện đầy bất ngờ Kim Lân đã vẽ lại trước mắt người đọc khung cảnh đói nghèo tràn lan của xã hội Việt Nam những năm 1945. Qua đó tác giả cũng nhấn mạnh tình yêu thương giữa người với người luôn bất diệt.
Nghị luận Vợ nhặt (mẫu 8)
Kim Lân là một trong những cây bút tiêu biểu nhất của nền văn học hiện thực Việt Nam, với số lượng tác phẩm không nhiều nhưng đã để lại những dấu ấn sâu sắc, có tầm ảnh hưởng lớn trong nền văn học hiện đại nước nhà thế kỷ XX. Trong số gia tài các tác phẩm ít ỏi của Kim Lân, Vợ Nhặt là một trong số những tác phẩm nổi bật và xuất sắc nhất khi nói về số phận người nông dân trong nạn đói kinh hoàng năm 1944-1945 làm hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói. Tuy nhiên Kim Lân không như những cây bút hiện thực cùng thời, đi sâu vào hiện thực tàn khốc của xã hội, mà trái lại tác phẩm của ông chú trọng nhiều vào các giá trị nhân văn, nhân đạo, khai thác và làm sáng rõ những vẻ đẹp của con người thông qua nghịch cảnh cuộc sống để mang đến ánh sáng, niềm tin hy vọng trong những tháng ngày tăm tối nhất.
Nói về Vợ nhặt Kim Lân từng chia sẻ “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người”. Thực vậy Vợ nhặt của Kim Lân là một câu chuyện với tình huống truyện đặc biệt, được xây dựng trên một cái nền cũng đặc biệt không kém khi tất cả khởi nguồn từ một mối hôn nhân kỳ lạ, không mai mối của anh Tràng. Anh tình cờ “nhặt” được vợ trong một lần đi đẩy xe bò thuê, cái sự kiện kỳ lạ đó diễn ra ngay giữa nạn đói kinh hoàng, người chết đói la liệt đầy đường, không khí ảm đạm, chết chóc tang thương bao trùm khắp làng quê. Con người nhếch nhác, thảm hại dìu dắt bồng bế nhau đi khắp các nẻo đường với những hình dung ám ảnh, kẻ sống thì “xanh xám như bóng ma”, người thoi thóp “nằm ngổn ngang khắp lều chợ”, còn “người chết như ngả rạ”, … Đêm xuống “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”, cả làng xóm không nhà nào có ánh đèn, lạnh lẽo, xác xơ, khắp đường luôn có những “bóng người đói dật dờ đi lại như những bóng ma”, âm thanh thiểu não của “tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”. Cảnh tượng khủng khiếp ấy Kim Lân không chủ ý nhấn mạnh hay tập trung trong suốt chiều dài tác phẩm mà chỉ đôi lần lướt qua, để lại một vài câu chữ để, nói lên cái hiện thực tàn khốc đang đeo bám lấy từng số phận con người khốn khổ.
Trong cái viễn cảnh kinh hoàng ấy, khi từng con người đang dò dẫm tiến dần tới nghĩa địa, run rẩy bất lực trước lưỡi hái của tử thần thì lại có một đám cưới kỳ lạ diễn ra, một tổ ấm mới được dựng lên với tất cả niềm tin, hy vọng vào tương lai tốt đẹp hơn. Chủ nhân của gia đình ấy chính là Tràng, thị và bà cụ Tứ những con người với những phẩm chất tốt đẹp và sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sẵn sàng vượt lên trên thực tại khó khăn để hướng về một cuộc sống tươi sáng hơn.
Nói về nhân vật Tràng, anh sinh ra vốn dĩ đã thiệt thòi, gia cảnh nghèo khó, diện mạo lại xấu xí, tính tình thì có phần ngờ nghệch, vô tư quá mức. Tràng là người dân ngụ cư, sống cảnh tha hương cầu thực, không ruộng đất, hàng ngày sống bằng nghề kéo xe bò thuê, trong nhà còn có thêm một mẹ già, cuộc sống vô cùng bấp bênh vất vả. Thêm nữa chính do cái xấu xí, nghèo đói mà Tràng mãi chẳng thể có được một tổ ấm riêng, cứ mãi lẻ loi đơn chiếc, vật lộn với cái đói, cái khổ. Là người dân ngụ cư nên Tràng không được cái quyền xuất hiện trong các buổi hội họp thôn xóm, sống cảnh bị xa lánh, coi thường, cuộc đời vừa thảm hại vừa đáng thương vô cùng. Tuy nhiên không vì thế mà Tràng nhụt chí, chán nản, trái lại anh vẫn luôn chăm chỉ lao động, kiếm sống, chấp nhận làm công việc kéo xe vất vả để kiếm tiền nuôi bản thân và chăm sóc người mẹ già yếu trong nhà.
Nạn đói ập đến, Tràng sống khó khăn hơn trước, nhưng cũng chính cái nạn đói ấy đã trở thành cơ duyên cho anh gặp thị, rồi nên duyên với nhau chỉ bằng 4 bát bánh đúc. Trong cuộc gặp gỡ tiền định ấy, trước hết ta thấy được một vẻ đẹp rất đáng quý của nhân vật Tràng. Anh là người nhân hậu, biết thấu hiểu và thông cảm cho những số phận cùng cảnh ngộ, mà tiêu biểu nhất là thị, một người đàn bà vì đói sắp chết mà bất chấp sĩ diện, liêm sỉ đòi ăn. Trước cái cảnh cong cớn, sưng sỉa trách móc của thị vì anh lỡ đùa “Muốn ăn cơm trắng mấy giò, lại đây mà đẩy xe bò với anh nì!” thì Tràng chẳng hề khó chịu, bực dọc, trái lại anh sẵn sàng bỏ tiền ra đãi thị an no một bữa tận 4 chén bánh đúc. Ngay trong lúc nạn đói hoành hành, người ta phải lo từng miếng ăn, thì cái tấm lòng hào phóng của Tràng quả thực đáng quý vô cùng.
Ấy rồi từ tấm lòng đồng cảm, thấu hiểu, Tràng đã dần chuyển sang sự xót xa, thương cảm cho người đàn bà tội nghiệp, không nơi nương tựa và cũng sắp bước đến đường cùng trước mắt. Lòng nhân hậu đã khiến anh muốn được che chở, chăm sóc, thành thử trong giây phút Tràng đã thốt ra lời “Này nói đùa chứ có về cùng tớ thì khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Đó có thể xem là một lời cầu hôn, tuy không lãng mạn nhưng lại vô cùng quý giá và ý nghĩa, nhất là trong thời điểm người ta cần có nhau để nương tựa qua nạn đói, trở thành cọng rơm cứu mạng của thị. Ấy rồi, thị nhận lời chính thức trở thành vợ Tràng, một người vợ nhặt, không mối mai sính lễ.
Lúc này đây, Tràng dường như trưởng thành hơn, những nét đẹp trong tâm hồn anh lại càng được thể hiện rõ nét, Tràng biết săn sóc, để ý đến cảm nhận của người vợ mới cưới, anh dẫn thị vào chợ tỉnh ăn một bữa no nê, rồi lại dẫn thị đi mua một cái thúng nhỏ, với vài món đồ lặt vặt để thị về nhà chồng cho đỡ ngượng ngùng. Đó là một sự tinh tế, thấu hiểu và bao dung hiếm có mà không phải bất kỳ một ai, một người đàn ông nào cũng có thể có được. Để mừng cho tân hôn, Tràng không tiếc bỏ ra hai hào để mua dầu về thắp sáng trong nhà, cố gắng cho thị một ngày cưới tuy không đầy đủ nhưng cũng có được những phần tươi sáng, vui vẻ, tạm xua đi những cái tối tăm, mệt nhọc đang chờ phía trước.
Trên đường dẫn thị về nhà, tâm trạng của Tràng tràn đầy những cảm xúc phấn khởi và hạnh phúc “Mặt hắn có một cái vẻ gì đó phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Thậm chí anh vui sướng đến độ “trong một lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt”. Có thể nói rằng cái đám cưới kỳ lạ với thị là bước ngoặt lớn của đời Tràng, mở ra cho anh một cánh cửa mới, một con đường mới, đem đến một làn gió tươi sáng và tràn đầy hy vọng trong tâm hồn chàng trai trẻ, dù rằng tương lai phía trước còn nhiều chông gai. Đến khi đưa thị về nhà giới thiệu với mẹ, lòng Tràng không tránh khỏi những cảm xúc lo lắng, sốt ruột, anh thưa chuyện với mẹ bằng một thái độ nghiêm túc, cẩn trọng mong mẹ xuôi lòng. Điều đó cho thấy rằng Tràng đang rất trân trọng và mong chờ vào cuộc hôn nhân, một cuộc sống mới hứa hẹn sẽ cho Tràng cảm giác hạnh phúc, một mái ấm gia đình trọn vẹn, tràn ngập yêu thương, để anh cũng như bao người đàn ông khác được làm chồng làm cha, bước vào một cuộc đời mới lắm thách thức nhưng cũng nhiều niềm vui, niềm hạnh phúc.
Sau đêm tân hôn, Tràng dường như thay đổi hẳn, trưởng thành, chững chạc và nhận thức được những trách nhiệm và vị trí của bản thân trong gia đình, anh vừa cảm thấy hạnh phúc vừa cảm thấy bản thân có trách nhiệm phải xây dựng gia đình êm ấm, mang lại hạnh phúc cho vợ con, nuôi sống gia đình. Điều ấy thể hiện rõ ràng trong suy nghĩ “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người. Hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này” đồng thời Tràng lập tức biến nó thành hành động khi “hắn chạy xăm xăm ra giữa sân. Hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa căn nhà”. Trong bữa cơm đón dâu mới, Tràng nghĩ về việc phá kho thóc Nhật, hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới, cũng bộc lộ những suy nghĩ mới, lối đi mới trong tương lai của Tràng và của cả rất nhiều những người nông dân khác, nhằm giải thoát cho chính bản thân khỏi nạn đói kinh hoàng, khỏi sự áp bức của kẻ thù.
Đối với nhân vật thị, sự xuất hiện của người phụ nữ này dường như lúc đầu đã không gây được mấy thiện cảm, bởi cái sự cong cớn, sưng sỉa, bất chấp liêm sỉ vì miếng ăn. Thế nhưng đi sâu vào thấu hiểu cho hoàn cảnh của thị trái lại người ta lại thấy thương xót nhiều hơn, thị đã đi đến bước đường cùng, đang bước dần đến nghĩa địa, ngay cái lúc ấy người ta chỉ mong được sống, khao khát sống đến mãnh liệt, bằng mọi giá phải sống. Chính lẽ đó khi bắt được cơ hội đẩy xe bò để được ăn, thị đã không chần chừ bất chấp cái thân thể tàn tạ, còn chút hơi sức. Nhưng Tràng thế mà lại quên đi mất lời đùa của mình, thành thử thị tưởng mình bị lừa, thị buồn, thị xót cái công sức và ấm ức vì cuộc đời khốn khổ sắp đến hồi kết. Những cái lúc ấy sao người ta còn có thể bình tĩnh, mà không sưng sỉa cong cớn lên cho được, ấy rồi nhờ vậy mà thị được ăn, được sống, thậm chí có cả một người chồng, một mối nhân duyên có phần kỳ lạ giữa cái nạn đói khủng khiếp.
Thị trở thành người vợ theo không, không mối mai, không cỗ bàn, không đồ sính lễ, tủi nhục, thế nhưng trong cái hoàn cảnh ấy thị dù tủi hổ, nhưng cái thị cần nhất vẫn là được sống, thị cần một chỗ dựa, một mái ấm để nương vào, để thoát khỏi cái cảnh bèo dạt của mình. Khi về nhà chồng, thị bỗng thay đổi thành một con người khác, tận mắt chứng kiến cái “nhà” thực chất chỉ là một căn lều rách nát của Tràng, mắt thị tối lại, thế nhưng người đàn bà ấy chẳng hề tỏ ra sự thất vọng, ảo não trong lòng, mà trái lại vẫn tiếp tục cùng Tràng vào nhà đợi mẹ chồng về.
Thị trở nên khép nép, lễ phép, không còn cái vẻ đanh đá, chỏng lỏn khi mới gặp Tràng, trước sự dặn dò, thương xót của bà cụ Tứ, thị dịu dàng, yên lặng lắng nghe, và tiếp thu, sẵn sàng cùng Tràng xây dựng một mái ấm với những niềm tin mãnh liệt về một tương lai tươi sáng. Sau đêm tân hôn cảnh thị dậy sớm chuẩn bị cơm nước, quét dọn nhà cửa, vườn tược, gánh nước, hong khô đồ,… đã mang đến hình ảnh đẹp của một người phụ nữ biết vun vén, tần tảo, hy sinh, đang cố gắng từng ngày để xây dựng cuộc sống mới ấm êm, hoàn toàn rũ bỏ cái cảnh lay lắt, lang thang đầu đường xó chợ.
Một nhân vật ấn tượng và đáng chú ý nữa trong truyện chính là bà cụ Tứ, nhân vật đại diện tiêu biểu nhất cho một thế hệ người phụ nữ Việt Nam thế kỷ trước. Bà cụ Tứ là một người đàn bà nghèo khổ, có cuộc đời nhiều đắng cay vất vả, một tay vất vả nuôi anh Tràng khôn lớn, cho đến lúc già cả lại phải chịu cảnh trở thành dân ngụ cư, lang bạt nơi xứ người, chịu cảnh đói kém hành hạ. Không chỉ chịu những nỗi khổ về thể xác, bà cụ Tứ còn luôn sống trong cảnh dằn vặt với nỗi khổ tâm tự trách vì bản thân nghèo quá không thể lo nổi cho người con trai một tấm vợ tử tế, phải nhìn cảnh con mình khổ sở, đơn độc mưu sinh.
Ở nhân vật này ta thấy hiện lên rõ nét nhất ấy là tấm lòng yêu thương con sâu sắc. Khi thấy anh Tràng dẫn một người đàn bà lạ mặt về nhà, bà không vội vã dò xét, tra hỏi mà trái lại bà để cho con trai mình tự lên tiếng, sau khi hiểu ra biết bao nhiêu là cớ sự, bà chẳng trách con tự tiện quyết định chuyện hôn nhân mà cái bà cụ lo lắng nhiều nhất lại là “liệu rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói này không”. Lòng người mẹ vẫn muôn đời suy nghĩ cho con, thấy anh Tràng lấy vợ trong cảnh đói kém, làng xóm tràn ngập một màu u ám, tiêu điều, lòng cụ Tứ lại càng thêm nhiều đau xót. Xót con vì nghèo khó mà chẳng có được một đám cưới tử tế, xót con vì phải cưới vợ trong cái cảnh sống hôm nay mà chẳng biết được ngày mai, cũng lại xót xa cho chính cuộc đời làm mẹ mà chẳng thể làm gì để con mình được sung sướng đầy đủ. Thế rồi sau tất cả những bộn bề suy nghĩ, lo toan, lòng cụ Tứ dần lắng lại, cụ sốc lại tinh thần, giấu nhẹm đi những lo lắng trong lòng để tác thành cho mối duyên của các con. Bà cũng hết lòng an ủi, động viên Tràng và thị với những lời nói đầy hy vọng “Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?”, tạo lập cho họ động lực, lòng tin vào một cuộc sống tốt đẹp hơn trong nay mai, chỉ cần họ cố gắng hết sức, cùng nhau vượt qua khó khăn, vượt qua được nạn đói kinh hoàng này.
Bên cạnh tấm lòng thương yêu con sâu sắc, cụ Tứ còn hiện lên với tấm lòng nhân hậu, bao dung biết thương cảm cho những số kiếp người bất hạnh, mà tiêu biểu nhất là thị, người con dâu mới cưới. Khi nhìn đến người đàn bà với bộ dạng tả tơi, thảm hại, đang rụt rè đứng đợi sự chấp nhận của bà, lòng bà bỗng dấy lên nhiều những nỗi niềm thương cảm, nghĩ rằng “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mấy lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”. Bà vội giục thị ngồi xuống cho đỡ mỏi chân, rồi tỉ tê, tâm sự chuyện hoàn cảnh gia đình, về chuyện không thể làm dăm ba mâm cỗ cưới khiến thị thiệt thòi, mong rằng thị có thể hiểu và thông cảm cho những nỗi khó khăn của mẹ con bà, mà thương yêu lấy Tràng. Đối với bà chỉ cần vợ chồng Tràng sống với nhau hạnh phúc “cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u vui lắm rồi. Nam nay đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”, rồi nhìn lại cái cảnh đói kém mà lòng nặng trĩu những nỗi lo lắng, thương cảm về cuộc đời của Tràng và thị.
Bà cụ Tứ còn hiện lên với vẻ đẹp của sức sống mãnh liệt, niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, hy vọng vào một tương lai tươi sáng hơn, trở thành người truyền động lực, cảm hứng cho con trai và con dâu, giúp họ có thêm sức mạnh, niềm tin vào một cuộc đời khấm khá và bớt khó khăn hơn trong tương lai. Điều đó được bộc lộ rất rõ thông qua cảnh bà động viên vợ chồng Tràng lúc mới về, và cả trong cái cảnh bữa cơm sáng bà cụ liên tục kể những câu chuyện vui, kể chuyện là ăn, nuôi gà,… Dù rằng những dự định, những mong ước ấy có vẻ khá xa xôi và khó khăn để thực hiện, thế nhưng nó vẫn đem đến cho câu chuyện những tia sáng ấm áp, xua tan bớt cái sự thảm hại, u ám, tiêu điều của làng quê trong nạn đói kinh hoàng, cũng mở ra cho các nhân vật những con đường mới mẻ, đầy hy vọng.
Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm văn học hiện thực xuất sắc khi viết về số phận của người nông dân giai đoạn trước cách mạng, đặc biệt là trong nạn đói kinh hoàng. Đối với tác phẩm này, có thể tóm lược bằng mấy câu “Đói. Nó vừa cay đắng, vừa đau đớn, đồng thời một mặt nào đó nó lại loé lên một tia sáng về đạo đức, danh dự. Truyện Vợ nhặt khai thác khía cạnh sau cùng của cái bi kịch ấy”. Cả Tràng, thị và bà cụ Tứ đều là những nạn nhân khốn cùng của nạn đói, cũng đứng trước những ám ảnh về cái chết đang tới gần, thế nhưng họ không tuyệt vọng, họ vẫn cố sống từng ngày, họ vẫn xây dựng gia đình, vẫn cùng nhau cố gắng, suy nghĩ về chuyện tương lai, và tin tưởng rằng mình sẽ vượt qua được cái đói. Đó chính là ý nghĩa nhân văn sau cùng mà Kim Lân muốn truyền tải, dù trong hoàn cảnh khốn cùng nào thì con người ta vẫn luôn lóe lên những tia sáng của phẩm hạnh tốt đẹp, chúng không bị chôn vùi bởi thực tại mà càng vì thực tại mà trở nên rõ nét hơn.
Nghị luận Vợ nhặt (mẫu 9)
Kim Lân là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của văn học hiện thực Việt Nam. Các tác phẩm của ông xoay quanh chủ đề người nông dân và vẻ đẹp của họ trong những hoàn cảnh điển hình của đất nước. Chúng ta hẳn vẫn chưa quên hình ảnh của ông Hai bước ra từ truyện ngắn Làng với lòng yêu nước sâu sắc và nghĩa tình với quê hương tha thiết. Đến với Vợ Nhặt, ta lại không khỏi xúc động trước khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của những người nông dân trong cảnh khốn cùng. Có thể nói truyện ngắn Vợ nhặt là một tác phẩm thành công điển hình cho phong cách và tài năng của Kim Lân. Truyện lấy bối cảnh của những năm 1944-1945, khi nước ta đang phải đối mặt với nạn đói “hoành hành”, cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” ấy cướp đi sinh mạng của hàng vạn con người. Bằng bút pháp hiện thực và tinh thần nhân đạo sâu sắc tác giả không chỉ khắc họa hiện thực tàn khốc của nạn đói mà còn làm sáng bừng lên vẻ đẹp của tình người ngay trong hoàn cảnh thử thách nhất.
Truyện bắt đầu từ việc “nhặt vợ” đầy lạ lùng, éo le của anh cu Tràng. Theo lẽ thông thường, để lấy được vợ người ta phải làm lễ cưới hỏi đàng hoàng, còn anh cu Tràng thì khác, anh nhặt vợ chỉ với vài câu bông đùa cùng bốn bát bánh đúc ăn vội. Tình huống càng éo le hơn, khi mà Tràng và mẹ đang trong hoạn nạn của đói khổ, vùng vẫy giữa cảnh khốn cùng thì Tràng lại đèo bòng, nhà lại có thêm một miệng ăn, gánh nặng lại thêm ghì lên vai. Tràng có vợ khiến người ở xóm Ngụ cư ai nấy đều kinh ngạc, ai nấy đều tò mò, thích thú nhưng cũng không khỏi xót xa trước một tình cảnh éo le. Bởi họ biết giờ này đến thân còn không lo nổi thì làm sao có thể lo thêm cho ai. Một tình huống “nhặt vợ” tuy nhẹ nhàng nhưng là tiền đề để triển khai câu chuyện, thể hiện tư tưởng nhân văn trong tác phẩm về tiếng nói của tình người, của lòng nhân ái. Giữa cảnh khốn cùng, người ta vẫn sẵn sàng cưu mang nhau lúc khốn khó, trong đói rét ngọn lửa của khát khao hạnh phúc vẫn nhen nhóm và bùng cháy trong tâm thức mỗi con người.
Những nhân vật bước ra từ trang văn Vợ nhặt đều để lại trong lòng chúng ta những ấn tượng và niềm thương cảm sâu sắc. Trước tiên, đó là Tràng, một người nông dân hiền lành, chất phác mà giàu tình cảm. Tràng vốn sinh ra không được sự ưu ái của tạo hóa khi mang trên mình một dáng hình xấu xí, tình tình lại cục mịch, chẳng được lanh lợi như bao người: “ …Hai con mất nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạch ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhính những ý nghĩ gì vừa lí thú vừa dữ tợn. Hắn có tật vừa đi vừa nói. Hắn lảm nhảm than thở những điều hắn nghĩ.”
Hơn thế nữa, Tràng con là dân ngụ cư, khốn cảnh không có đất đai mà cày cấy, đã nghèo lại càng nghèo thêm. Người như Tràng thì khó có vợ, hắn biết, mẹ hắn cũng biết và cả xóm ngụ cư đều biết. Tuy vậy, nhưng Tràng là người hiền lành, luôn vui vẻ với bọn trẻ quanh xóm ngụ cư và còn rất chăm chỉ. Tràng ngày ngày vẫn làm thuê kiếm sống, cùng người mẹ nghèo cố gắng từng ngày. Cũng như bao người con trai khác, Tràng cũng mong có vợ, niềm hạnh phúc đến với hắn khi được thị theo về khi chợt cất lên câu nói bông đùa trong một lần đẩy xe bò thuê thì gặp thị: “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Từ giây phút ấy, Tràng bắt đầu trưởng thành và thay đổi lên rất nhiều. Niềm hạnh phúc có vợ, niềm hạnh phúc khi được sống trong một căn nhà nhỏ ấm êm có một người mẹ hiền, một cô vợ thảo đã khiến Tràng thay đổi, Tràng thấy mình như “nên người” hơn: “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà.”
Sự xuất hiện của thị là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời Tràng, khiến Tràng thay đổi tích cực về cả nhận thức và hành động. Có thể nói niềm hạnh phúc có vợ ấy đã xua tan những nỗi lo chuyện cơm áo nơi Tràng, khiến Tràng trân trọng và thêm niềm tin vào cuộc sống. Sức mạnh của tình yêu, của hạnh phúc đã cứu vớt tâm hồn Tràng, dẫu đó chỉ là thứ hạnh phúc “nhặt vội” mà thôi. Qua nhân vật Tràng, tác giả đã bày tỏ niềm cảm thương sâu sắc trước số phận của những con người bất hạnh trong xã hội, là niềm tin tưởng vào những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân Việt Nam xưa.
Thị cũng là một nhân vật tiêu biểu trong tác phẩm. Người phụ nữ không tên, khổng tuổi, với dáng hình gầy đét đi vì đói. Cái đói đã đày đọa con người cả dáng hình, thậm chí thị phải vứt bỏ cả lòng tự trọng của một người con gái để theo Tràng về. Ở thị, ta thấy được điều đáng trân trọng là niềm khát khao sống mãnh liệt, vì đói quá rồi, khổ quá rồi, thị biết cái đói có thể chực chờ để giết chết mình bất cứ khi nào, nên theo Tràng về cũng là để có miếng ăn, có một nơi để cứu lấy mình, để mình nương tựa. Thị theo Tràng chính là lựa chọn cuối để giành lại sống cho chính mình, nuôi hi vọng vào một điều gì đó dự phần vào thay đổi tình cảnh đói rét của bản thân lúc ấy.
Sau khi theo Tràng về, sự chua chát, chỏng lỏn của thị cũng không còn mà thay vào đó là sự e ấp, ngại ngùng của một người con gái. Nét dịu dàng, nữ tính của Thị bắt đầu được bộc lộ, đó là sự lo lắng, ngập ngừng khi ra mắt mẹ Tràng và sự chu đáo, đảm đang khi cùng bà cụ Tứ dọn dẹp lại căn nhà, khu vườn nho vào sáng hôm sau. Có thể thấy, sâu thẳm bên trong thị cũng là một người con gái trách nhiệm, biết sống vì gia đình, bên trong vẻ ngoài bất cần ấy là một con người khát khao hạnh phúc.
Và đặc biệt, chúng ta cũng không thể nào quên hình ảnh người mẹ hiền còm cõi ở tuổi xế chiều vẫn một lòng lắng lo cho con- bà cụ Tứ. Bà cụ Tứ trước hết là một người mẹ trách nhiệm, lo làm ăn để nuôi nấng con nên người, biết con mình chẳng được lanh lẹn, bà cũng dặn lòng, lo lắng cho tương lai của con. Cũng như bao người mẹ khác, cụ Tứ cũng mong con mình được hạnh phúc êm ấm khi đến tuổi lập gia đình.
Khi Tràng dắt thị về, bà cụ Tứ thấy thì vô cùng ngạc nhiên đan xen với nỗi tủi hờn, tự trách. Bà ngạc nhiên vì sự xuất hiện của người con dâu mới, chua xót bởi bà hiểu trong cảnh khốn cùng, đói khổ quá người ta mới chịu theo con mình về nhà. Lắng lo bởi lẽ với một người từng trải như bà cụ Tứ, chắc chắn hiểu được những khó khăn trong tương lai mà cả Tràng và thị phải vượt qua. Lời dặn dò con đầy ấm áp của bà thật xúc động: “Nhà ta nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau”. Là một người mẹ, bà cũng mừng cho hạnh phúc của con, dù lo lắng nhưng trong người mẹ ấy vẫn tin vào ngày mai, vào một thứ ánh sáng tốt đẹp nơi bần cùng tăm tối. Bà cụ Tứ hẳn là một người mẹ trách nhiệm, mẫu mực, giàu lòng bao dung và đức hi sinh mà ai đã từng đọc Vợ nhặt cũng không thể nào quên được.
Bằng việc xây dựng tình huống truyện đặc sắc cùng hệ thống các nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, nghệ thuật đối thoại, độc thoại nội tâm sâu sắc cùng ngôn từ giản dị mà giàu sức biểu đạt, Kim Lân đã dựng nên một tác phẩm giàu giá trị nhân văn. Đó là tiếng nói thiết tha, thương cảm và trân trọng những người nông dân nghèo trong xã hội giữa nạn đói năm những năm 1945 đầy đau xót. Đó là tiếng nói căm phẫn trước tội ác “trời không dung, đất không tha” của bọn thực dân xâm lược. Là sự trân trọng những khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của con người trong gian khổ. Đồng thời, mở ra một con đường để nhân dân vượt qua tăm tối, vươn tới những điều tốt đẹp hẹp, đó là con đường đấu tranh cách mạng.
Kim Lân bằng tài năng trong ngòi bút của mình đã vẽ lên một bức tranh hiện thực về nạn đói và những thảm cảnh trong những năm tháng đói khổ. Qua đó, bộc lộ chiều sâu tư tưởng của tác phẩm hiện thực vì con người, gắn bó với đời sống con người.
Nghị luận Vợ nhặt (mẫu 10)
Kim Lân nói trong một bài phỏng vấn rằng “Cái đói là mỗi lo lắng của con người ở tất cả mọi dân tộc và mọi thời đại. Cho nên đó là một đề tài cũng thuộc về bản chất của đời sống. Các nhà văn viết về cái đói ở khía cạnh tối tăm và bất lực của con người trước nó. Con người phạm tội và làm đủ mọi chuyện dại dột khác chỉ vì đói. Khi tôi viết, ý tưởng thường trực trong tôi là những người đói dù thế nào đi nữa vẫn luôn luôn khao khát cuộc sống tốt hơn, vẫn tin tưởng một cách mơ hồ vào cuộc sống tương lai. Cái “mơ hồ” ấy là do cuộc sống thực tại luôn hành hạ họ”. Có thể nói rằng đây chính là sự khác biệt nhất của Kim Lân so với các nhà văn hiện thực cùng thời ví như Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài, Vũ Trọng Phụng,… những cây bút phản ánh hiện thực tàn khốc và nhiều bi kịch. Các tác phẩm của Kim Lân cũng phản ánh hiện thực khắc nghiệt của xã hội cũ, tuy nhiên khác biệt ở chỗ tác giả đã từ chính những hoàn cảnh ngặt nghèo, khủng khiếp nhất khai thác được những vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn nhân vật. Mang đến cho bức tranh nông thôn dẫu ở cảnh tăm tối, cùng cực nhất vẫn có những ánh sáng nhân đạo thật đẹp, xua đi cái cảnh ngộ bi ai, khủng khiếp đầy ám ảnh của đất nước, đặc biệt là những năm nạn đói hoành hành, tử thần đang đợi sẵn những kiếp người lay lắt bước dần đến nghĩa địa. Trong gia tài các tác phẩm ít ỏi của Kim Lân thì Vợ nhặt là tác phẩm xuất sắc và nổi bật nhất khi viết về đề tài người nông dân, với tình huống truyện độc đáo, cách xây dựng nhân vật đặc sắc, tinh tế, vừa thể hiện rõ bi kịch của người nông dân Việt Nam trong nạn đói. Đồng thời tác phẩm cũng bộc lộ được những vẻ đẹp phẩm chất đáng quý, đặc biệt là niềm tin, niềm hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn mà như Kim Lân nói “Những người đói, họ không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống”.
Vợ nhặt là tác phẩm độc đáo, khi cái nền của câu chuyện diễn ra trên một hoàn cảnh hết sức đặc biệt. Nạn đói kinh hoàng những năm 1944-1945 đã cướp đi sinh mạng của hơn hai triệu đồng bào chỉ trong vài tháng ngắn ngủi mà theo như Nam Cao, nỗi ám ảnh khủng khiếp ấy của nạn đói “có lẽ đến năm 2000, con cháu chúng ta vẫn còn kể lại cho nhau nghe để rùng mình”. Kim Lân là một ngòi bút hiện thực tài hoa và tinh tế, dẫu rằng Kim Lân không có tài học cao thế nhưng văn chương của ông luôn có một cái gì đó rất thấm, rất sâu sắc. Chẳng cần phải dùng những từ ngữ ghê rợn khủng khiếp để diễn tả cái nạn đói đang hoành hành, mà tác giả chỉ lặng lẽ miêu tả cái không gian ảm đạm, tiêu điều của làng quê thông qua những hình ảnh rất thực. Người dân từ khắp nơi bồng bế, dìu dắt nhau đi tản cư, ai nấy trông nhếch nhác, người ngợm “xanh xám như bóng ma”, “nằm ngổn ngang khắp lều chợ”, “người chết như ngả rạ”, và dường như cái chết đã trở thành lẽ thường, diễn ra hàng ngày đến mức không buổi sáng nào đi làm, đi chợ người ta không thấy “vài ba cái thây nằm còng queo bên đường”. Cả không gian làng quê bị bao trùm bởi sự chết chóc “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Đêm đến không nhà nào có ánh đèn, lạnh lẽo, xác xơ, khắp đường luôn có những “bóng người đói dật dờ đi lại như những bóng ma”, mà có lẽ đó cũng chính là những bước chân cuối cùng dẫn họ đến nghĩa địa, nơi có thần chết đang chờ sẵn. Không chỉ vậy cảnh tượng làng quê trong nạn đói còn cực thê lương bởi “tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết” tựa như tiếng gọi rùng rợn của tử thần trong đêm tối.
Như vậy chỉ bằng những nét vẽ ảm đạm, âm thầm, Kim Lân đã gợi ra thực rõ ràng cảnh tượng kinh hoàng, đầy ám ảnh của nạn đói. Khi mà người ta sống chỉ tính được bước nào hay bước đó, cái đói, cái chết cứ hiện diện trước mắt hành hạ tinh thần của những con người khốn khổ, ngặt nghèo đến độ họ tuyệt vọng và bất lực “khó ai có thể tin mình sống nổi”, thậm chí là nhìn thấy trước cả cái chết của mình sẽ diễn ra như thế nào. Tuy nhiên trong một loạt những con người đang quằn quại, vật lộn với cái đói thì Tràng, thị, bà cụ Tứ lại hiện lên như một nguồn sáng, lặng lẽ xua tan đi bớt cái không khí thê lương, đầy ám ảnh của xóm ngụ cư.
Kim Lân đã không né tránh sự thật, hay cố tình che giấu đi cái thảm hại của con người trong nạn đói bằng bút pháp chấm phá, xen kẽ trong một vài câu văn tả thực. Cái chết dường như hiện diện khắp mọi nơi, trở thành một hiện tượng hiển nhiên, quen thuộc, thảm hại đến độ người sống cũng chẳng còn sức mà đi dọn dẹp các xác chết, người ta chỉ quấn chiếu rồi bỏ đó, mùi gây của xác chết bao phủ không gian. Tuy nhiên cái hay của Vợ nhặt lại không nằm nhiều ở giá trị hiện thực khi tả lại nạn đói một cách đầy ám ảnh mà là nằm ở những giá trị nhân đạo. Trong những hoàn cảnh khốn cùng nhất, con người ta vẫn luôn giữ cho mình được những giá trị phẩm chất đạo đức tốt đẹp, trở thành nguồn sáng, động lực chống chọi với cuộc sống, họ là “Những người đói, họ không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống” dù rằng cả Tràng, thị, bà cụ Tứ đều “khó ai có thể tin mình sống nổi”.
Câu chuyện bắt đầu từ sự kiện Tràng vô tình “nhặt” được vợ, một đám cưới diễn ra giữa những cái chết, cái đói đang bao trùm. Tràng với thị kết duyên bắt đầu từ một câu nói đùa rằng “Muốn ăn cơm trắng mấy giò, lại đây mà đẩy xe bò với anh nì!”. Những tưởng đó chỉ là một câu bông đùa để xua đi cái mệt mỏi của Tràng, thế nhưng lại có một người đàn bà xuất hiện coi đó là sự thật, cùng đẩy xe chung với anh, cốt để kiếm miếng ăn. Nghĩ thực sâu xa có lẽ rằng cái đói khát đã hành hạ người đàn bà ấy quá lâu, đến độ chỉ cần một tia hy vọng được ăn thị cũng bằng lòng thử, chẳng cần biết đó là thật hay đùa. Hai con người xa lạ, đẩy một chuyến xe chung, Tràng thương cảm mà đãi thị hẳn 4 bát bánh đúc, xong chẳng hiểu vì điều gì mà anh bỗng dưng bật thốt ra câu nói “Này nói đùa chứ có về cùng tớ thì khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Đó là một lời cầu hôn, một lời ngỏ ý gắn mắc câu đùa, thế nhưng thị theo Tràng về thật, theo không chỉ với 4 bát bánh đúc. Một cuộc hôn nhân thực sự đã diễn ra ngay giữa cảnh đói kém, không mối mai, đám rước, chỉ là hai con người tự động gắn liền với nhau từ hai câu nói nửa đùa nửa thật mà nên vợ nên chồng. Sự xuất hiện của thị trong xóm ngụ cư tồi tàn dường như đã mang đến một luồng gió mới, khiến khuôn mặt những con người ở đây “bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên”, và “có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ”. Hôn nhân của Tràng và thị diễn ra chớp nhoáng, nhưng cũng chính là biểu hiện của sự sống bất diệt, niềm khao khát hạnh phúc muôn đời của con người. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh khốn cùng nào con người vẫn khao khát được yêu thương, có mái ấm, chốn dừng chân. Và khởi đầu hôn nhân của Tràng và thị cũng chính là đại diện cho sự sinh sôi nảy nở, là bông hoa nhân đạo ngay giữa cái chết đang ngập tràn khắp thôn xóm.
Nói đến nhân vật Tràng, anh là một điển hình của người nông dân trong chế độ cũ, là dân ngụ cư, vì đói kém mà phải rời xa quê hương để cầu thực, hai mẹ con Tràng phải sống trong căn nhà tồi tàn, rách nát trên đê. Và vì là dân ngụ cư nên anh phải gánh chịu sự kỳ thị, xa lánh của người dân bản địa, không được chia ruộng đất, cũng chẳng được phép có mặt trong bất kỳ cuộc hội họp nào của thôn xóm, cuộc sống vô cùng đáng thương, thảm hại. Vì kế sinh nhai Tràng nhận kéo xe thuê cho người ta với đồng lương rẻ mạt, công việc lúc có lúc không, bấp bênh không ổn định, luôn phải đối diện với nỗi sợ rồi cái đói, cái chết có thể ập đến bất ngờ trong nay mai. Rồi bản thân anh Tràng cũng vì cái nghèo xơ xác, tàn tạ, lại thêm ngoại hình xấu xí được ví như sự gọt đẽo sơ sài của tạo hóa “hai mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, thân hình to lớn vập vạp”. Lại thêm cái tật “vừa đi vừa lảm nhảm những điều mà mình nghĩ”, tuy đã lớn nhưng tâm hồn Tràng vẫn như một đứa trẻ hay chơi đùa với đám trẻ con, thỉnh thoảng ngẩng mặt lên trời cười hềnh hệch chả rõ lý do.
Cái ngoại hình xấu xí cùng với tính cách kỳ dị, thêm cái đói nghèo đã trở thành rào cản kiên cố khiến Tràng không có nổi một tấm vợ. Tuy nhiên bên trong cái vỏ bọc xù xì, xấu xí ấy của Tràng lại chính là một tâm hồn với những vẻ đẹp đáng quý. Trước hết Tràng là một người chăm chỉ, luôn nỗ lực lao động kiếm sống chống lại cái đói đang hành hạ chực chờ bao số phận con người ngoài kia. Đặc biệt trong hoàn cảnh ngặt nghèo, ai cũng mải mê vật lộn để giành lấy sự sống từ tay tử thần, thì Tràng vẫn bộc lộ được tâm tính yêu đời, sự lạc quan trong cuộc sống khi vừa đẩy xe vừa có sức nói những câu bông đùa. Và cũng chính câu đùa “Muốn ăn cơm trắng mấy giò, lại đây mà đẩy xe bò với anh nì!” đã là nên bước ngoặt lớn trong cuộc đời của hai con người là Tràng và thị. Thị thấy Tràng nói vậy thì ton ton chạy tới đẩy xe cùng Tràng, trong lần đầu gặp gỡ Tràng ngoài việc khoái chí khi có người vì câu đùa của mình mà chạy tới đẩy xe thật thì anh chẳng có nhiều ấn tượng về thị, một người đàn bà tàn tạ, xanh xám như sắp lả đi. Đến lần thứ hai gặp gỡ, khi thấy điệu bộ cong cớn, sưng sỉa, đầy đanh đá của người đàn bà đang nhiếc móc mình vì miếng ăn thì Tràng bỗng thấy động lòng thương, một cảm giác trước đây chưa từng có đã thôi thúc Tràng đãi thị ăn hẳn 4 bát bánh đúc. Ấy nhưng câu nói đưa đẩy, vui đùa của đôi nam nữ đã kết lại bằng một câu của Tràng “Này nói đùa chứ có về cùng tớ thì khuân hàng lên xe rồi cùng về”, đó là lời ngỏ ý, lời cầu hôn vụng về, chân chất của một tâm hồn cô đơn quá lâu, đang thèm khát mái ấm gia đình. Đồng thời nó cũng bộc lộ rõ vẻ đẹp tấm lòng Tràng, một tấm lòng nhân hậu, biết cảm thông, khi thấy cuộc đời thị thảm thương, tàn tạ lòng anh lại muốn cưu mang, giúp đỡ, cho thị một chỗ trú chân, tránh đi khỏi cái cảnh lang thang, dật dờ những bước đi đến cõi chết vì đói.
Cuộc hôn nhân kỳ lạ của Tràng và thị vốn không phải tình yêu mà là tấm lòng đồng cảm của những con người đồng cảnh ngộ với nhau. Trong nạn đói kinh hoàng này, họ dám vượt lên những ám ảnh đói khát để mà cưu mang, đùm bọc lẫn nhau, điều đó mới đáng quý làm sao. Không chỉ vậy, ta còn thấy toát ra ở Tràng là sự tinh tế, biết quan tâm và yêu thương người vợ mới cưới, anh thương xót thị theo không mình, thành thử anh đã dẫn thị vào chợ mua cho mấy món đồ lặt vặt, để thị mang về nhà chồng, lại đãi thị ăn một bữa no nê coi như tiệc cưới, rồi mua thêm hai hào dầu (thứ vốn được coi là xa xỉ trong cảnh đói kém) để thắp sáng trong nhà, coi như mừng tân hôn.
Trên suốt quãng đường về nhà tâm trạng của Tràng tràn ngập những nỗi sung sướng và hạnh phúc vì cuối cùng mình cũng có một gia đình riêng, và dường như Tràng đã làm được một điều gì đó rất tốt đẹp “Mặt hắn có một cái vẻ gì đó phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Thậm chí anh hạnh phúc đến độ “trong một lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt”. Bước ngoặt trong cuộc đời Tràng với sự kiện vợ “nhặt” dường như đã xua tan đi cái không khí ảo não, tuyệt vọng, mở ra trong lòng Tràng những niềm vui, niềm hy vọng mới vào một tương lai tốt đẹp hơn.
Kể từ lúc cưới vợ người ta bỗng nhận ra anh Tràng hình như đã trưởng thành hơn, đã rũ bỏ hết cái vẻ ngờ nghệch, mà thay vào đó là sự tâm lý, chu đáo, có trách nhiệm của một người chồng, người cha trong tương lai. Anh giới thiệu thị với mẹ một cách nghiêm túc và kiên nhẫn, trong lúc đợi mẹ về nhà thì luôn tỏ ra sự sốt ruột, nóng lòng chờ mong. Đôi điều đó cũng đủ để hiểu rằng Tràng đã trân trọng và hạnh phúc với cuộc hôn nhân, cũng như mối nhân duyên bất ngờ này như thế nào. Sau đêm tân hôn, thức dậy nhìn cảnh mẹ chồng nàng dâu chăm chú dọn dẹp quét tước, ngôi nhà như có một diện mạo mới, một sinh khí mới, “cảnh tượng thật đơn giản bình thường, nhưng đối với hắn thật thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”, rồi “một nguồn vui sướng đột ngột tràn ngập trong lòng”. Tràng bắt đầu ý thức được trách nhiệm, bổn phận của người đàn ông trong gia đình “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người. Hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này” và biến nó thành hành động “hắn chạy xăm xăm ra giữa sân. Hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa căn nhà”, muốn được cùng chung tay góp sức để xây dựng mái ấm với mẹ và người vợ mới cưới. Rồi chuyện cưới vợ của Tràng, cũng đã thôi thúc, mở ra trong lòng anh những ý nghĩ, những khao khát đổi đời, Tràng không thể mãi làm nghề kéo xe, rồi mai đây có con cái liệu có còn trụ được nữa không. Anh bắt đầu nghĩ đến chuyện Việt Minh cướp phá kho thóc Nhật, hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới cứ quanh quẩn trong óc Tràng, mở ra một niềm tin, một cánh cửa mới đầy hy vọng về cuộc sống tốt đẹp hơn trong tương lai. Đó cũng là dấu ấn cho sự chuyển biến trong nhận thức của Tràng, là đại diện cho sự giác ngộ cách mạng của người nông dân trong nạn đói năm 1945.
Về nhân vật thị, cái ấn tượng sâu rõ nhất về người đàn bà này ấy chính là cái dáng vẻ cong cớn, sưng sỉa, đầy đanh đá khi mắng nhiếc Tràng chỉ vì miếng ăn “Điêu! Người thế mà điêu!”. Nếu không hiểu về thị, không hiểu gì về cái nạn đói của thế kỷ trước chắc hẳn người ta đã ghét cay ghét đắng cái thói ghê gớm ấy của người đàn bà tội nghiệp, đến nhục nhằn vì miếng ăn. Thế nhưng trước cảnh người chết như ngả rạ, cái đói bao trùm khắp nơi, người ta giành nhau từng miếng ăn thì với thị việc đấu tranh đòi lấy cái miếng ăn từ việc đẩy xe bò giúp Tràng cũng không hẳn là quá đáng. Chỉ là đói quá, và thị thì không muốn chết, thị muốn được sống, thành thử cái cách làm của thị khiến người ta thấy có phần phản cảm.
Thị là một trong những hình ảnh điển hình cho người nông dân đang chết mòn dưới cái đói kinh hoàng, không tên không tuổi, không lai lịch rõ ràng, người ta chỉ biết đến thị là một người tản cư và cũng đang thảm thương, dật dờ bước đến nghĩa địa. Thị không có một dáng hình đẹp, Kim Lân đã miêu tả thị bằng những nét vẽ thê thảm, tàn tạ nhất “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “gầy xọp”, “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, rồi “cái ngực gầy lép nhô lên” và “hai con mắt trũng hoáy”. Thị gần như chẳng còn dáng người, mà trông giống như một cái xác khô biết di chuyển và biết nói, hơi thở sự sống đang héo mòn cạn kiệt đến những giọt cuối cùng bên trong người đàn bà tội nghiệp.
Tuy nhiên cũng như Tràng sau những cái xấu che lấp, là những vẻ đẹp tâm hồn tiềm ẩn. Cuộc gặp gỡ với Tràng và bốn bát bánh đúc như là cọng rơm cứu mạng, thị chấp nhận chuyện theo không Tràng về làm vợ cũng chỉ bởi thị cần cái ăn, thị muốn được sống. Điều đó bộc lộ khao khát được sống mãnh liệt của thị, đồng thời cũng là ước mong có được một mái ấm, một người đàn ông đủ sức chở che, cho thị được dựa vào những lúc khó khăn tuyệt vọng nhất.
Và như vậy trước sự hào phóng rộng lượng của người đàn ông mới gặp, lòng thị đã thắp sáng lên những hy vọng thật tốt đẹp về cuộc sống mới. Không chỉ vậy ở thị còn hiện lên những vẻ đẹp rất nữ tính, trên đường về nhà chồng, bắt gặp những ánh mắt tò mò, dò xét thị đã không giấu nổi sự ngượng ngùng, bẽn lẽn, thị kéo chiếc nón rách che đi gương mặt xấu hổ của mình. Khi về đến nhà Tràng, nhìn cảnh tượng rách nát, sơ sài của căn “nhà”, mắt thị tối đi, lòng thị không tránh khỏi sự thất vọng. Thế nhưng không vì thế mà thị bỏ đi hay tỏ vẻ chán ghét, trái lại thị bỗng trở nên khuôn phép, ra dáng một cô dâu mới về nhà chồng, khác hẳn cái dáng vẻ đanh đá, chỏng lỏn lúc gặp Tràng trên tỉnh. Thị lễ phép chào mẹ chồng, rồi yên lặng lắng nghe những lời dặn dò vun vén của bà cụ Tứ. Cảnh tượng hòa hợp của những mảnh đời vô tình sáp lại gần nhau khiến người đọc không khỏi thổn thức vì giữa cảnh tăm tối, tan hoang, vậy mà vẫn có những hạnh phúc đang nhen nhóm trong một gia đình, những con người trở lại với bản chất thực sự để cố gắng tạo dựng một tương lai mới, tốt đẹp và đáng quý biết bao. Ấy rồi sau đêm tân hôn, cảnh tượng thị hăng hái dọn dẹp nhà cửa, đem đống quần áo cũ nát ra phơi, gánh đầy mấy lu nước, quét sân, gom lá, chuẩn bị cơm sáng,… đã thực sự chứng minh thị thay đổi, thị đã thành vợ người ta, làm một người phụ nữ đảm đang, tần tảo, hết lòng vì gia đình, tiêu biểu cho phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam từ bao đời nay.
Về nhân vật bà cụ Tứ, một người đàn bà đã đến tuổi gần đất xa trời nhưng vẫn phải khốn khổ vật lộn với cái đói, mang thân phận dân ngụ cư. Sống dựa vào người con trai duy nhất trong căn nhà lụp xụp, rách nát, đồng thời luôn mang trong mình những nỗi mặc cảm, day dứt về việc không lo nổi cho con trai một tấm vợ, chỉ vì bà nghèo quá. Ở bà ta thấy hiện lên những vẻ đẹp rất đáng trân trọng, đầu tiên là tấm lòng yêu thương con sâu sắc. Khi chứng kiến cảnh anh Tràng dẫn thị về và giới thiệu là vợ, lòng bà không tránh khỏi những bất ngờ, sửng sốt, thế nhưng bà lựa chọn cách nghe người con giải thích, trình bày. Sau khi rõ ràng bao cớ sự, bà trở nên im lặng, nghĩ thương cho số phận con trai mình, người ta cưới vợ lúc ăn nên làm ra, còn Tràng lấy vợ trong cảnh đói kém, thiệt thòi, nửa mâm cỗ cũng chẳng có lấy, rồi trong lòng bà tràn lên một nỗi lo lắng “liệu rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói này không”.
Như vậy có thể thấy trước sự kiện lạ lùng, bà cụ không hề có ý trách mắng hay phản đối, mà trái lại bà chỉ lo lắng cho số phận của con, của người đàn bà xa lạ khi cuộc hôn nhân của họ chóng vánh và giản đơn đến đáng thương. Ấy rồi cụ Tứ cũng chẳng để các con phải đợi lâu, bà nhanh chóng thoát ra khỏi những nỗi lo lắng của mình, đem giấu nhẹm chúng vào trong lòng để tác thành cho các con, chính thức nhận thị làm dâu con trong nhà “ừ thôi, các con đã phải duyên phải kiếp với nhau thì u cũng bằng lòng”. Rồi bà cũng nói những câu để an ủi, động viên cặp tân nhân chính thức bước vào cuộc sống mới, tạo lập cho họ niềm tin, hy vọng về một tương lai khấm khá hơn “Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?”.
Không chỉ là lòng thương con, bà cụ Tứ còn hiện lên với tấm lòng nhân hậu, bao dung, biết đồng cảm cho số phận con người mà ở đây là thị. Trước hình ảnh một người đàn bà tàn tạ, xấu xí, lòng bà hiện lên những nỗi thương xót, lại nghĩ đến việc thị theo không Tràng bà tự nhủ rằng “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mấy lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”. Bà hiểu cho nỗi khổ tâm của thị, cũng hiểu được sự ngượng ngùng, xa lạ của cô con dâu mới về nhà chồng, thế nên bà đã tìm cách thân thiết, gần gũi để xóa đi những sự e thẹn, rụt rè của thị. Bà giục thị ngồi xuống giường “Con ngồi xuống đây, ngồi xuống cho đỡ mỏi chân”, rồi nhẹ nhàng tỉ tê về cái nghèo khổ của gia đình, về việc không làm được dăm ba mâm cỗ cưới, vừa để giải thích vừa muốn thị cảm thông, thấu hiểu thêm về gia cảnh. Rồi bà cũng bộc bạch lòng mình “cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u vui lắm rồi. Năm nay đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”. Bên cạnh đó, ở cụ Tứ ta còn nhận thấy rõ được vẻ đẹp của niềm tin vào cuộc sống, vào tương lai khấm khá hơn, khi trong bữa cơm sáng bà liên tục nói về chuyện làm ăn, nuôi gà, gieo vào tâm trí hai con những tia sáng mới, những khao khát về một cuộc sống hạnh phúc đủ đầy, không còn bị cái đói hành hạ.
Vợ nhặt là một trong số các tác phẩm văn học hiện thực xuất sắc khi nói về số phận người nông dân dưới nạn đói kinh hoàng năm 1945. Cái đặc sắc của tác phẩm không chỉ nằm ở việc tác giả miêu tả sống động, chân thực từng chi tiết của nạn đói, của những cái chết cận kề, hay cảnh những người nông dân tàn tạ đang chết mòn vì thiếu lương thực. Mà nằm ở giá trị nhân đạo của tác phẩm, Kim Lân đã từ trong chính thực cảnh tối tăm, tuyệt vọng nhất, tìm được ánh sáng của tình thân, tình người, của những khát vọng sống mạnh mẽ, niềm tin vào một tương lai tốt đẹp hơn. Tất thảy những vẻ đẹp ấy không hề bị cái đói, cái chết vùi dập mà trái lại càng trong những nghịch cảnh khốn cùng nó càng tỏa sáng mạnh mẽ, trở thành nguồn động lực to lớn khiến con người thoát ra khỏi tối tăm, bế tắc, tìm đến con đường cách mạng, tự giải phóng bản thân.
IX. Nghị luận về Cải ơi
Nghị luận Cải ơi (mẫu 1)
Pau- top- xki đã từng nói: “Văn học đối với tôi là một hiện tượng đẹp đẽ nhất thế giới”. Thật vậy, chỉ khi đến với văn chương, người thi sĩ mới được tự do để bày tỏ nỗi lòng mình, và rồi mang tới cho độc giả biết bao những trạng thái cảm xúc vui buồn khác nhau. Giống như khi ta thưởng thức tác phẩm Cải ơi của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, tác giả đã thành công để lại biết bao niềm lắng đọng trong trái tim các độc giả.
Con người với số phận riêng tư có thể coi là một đề tài được tác giả Nguyễn Ngọc Tư khai thác thành công nhất trong sự nghiệp văn học của mình. Nhân vật trong các tác phẩm của bà thường là những con người thuần chất Nam Bộ được thể hiện rõ nét qua những cái tên mộc mạc, giản dị, chân chất, đồng thời mang trong mình những tâm tư, nguyện vọng nhỏ bé,bình dị, đời thường trong cuộc sống mưu sinh vất vả trên sông rạch chằng chịt. Mỗi một câu của Nguyễn Ngọc Tư lại được khai thác từ một góc cạnh khác của cuộc sống, đó là những chất chứa những đau đớn tột cùng, là số phận cô độc, hiu hắt của mảnh đời nghẹn đắng nỗi buồn cùng thân phận của nhỏ bé của những người nông dân chân chất với những khát khao, ước muốn bình dị về cơm áo gạo tiền, về một mái ấm gia đình yên an, hạnh phúc.
Mở đầu truyện ngắn Cải ơi là một cuộc tìm kiếm trên khắp khắp các hang cùng ngõ hẹp của người cha già Năm Nhỏ “đã đi qua chợ, qua đồng, tới rất nhiều quê xứ”. Ông đã lang thang trong hơn mười hai năm trời cùng với tiếng gọi “Cải ơi!”. Cải là con gái riêng của vợ và chồng trước của bà: “Lúc nhỏ Cải mười ba tuổi, một bữa mê chơi làm mất đôi trâu, sợ đòn, nó trốn nhà”. Sau khi biết chuyện, vợ ông buồn lắm, bà nghi ngờ vì ông hà khắc, ngược đãi nên con nhỏ mới sợ bà bỏ nhà ra đi. Cho dù ông có giải thích, thề thốt như nào đi chăng nữa, bà cũng chẳng tin lời ông. Và thế là ông Năm bất chợt biến thành “Tên trộm đãng trí” thậm trí người ngoài họ còn “Đồn đãi ông giết con nhỏ rồi lấp ở một chỗ đất nào, họ ùn ùn lại coi”. Vì quá đau khổ và nhục nhã, ông Năm đã quyết định khăn gói ra đi, lên đường quyết tâm tìm được cái Cải trở về. Giữa biển người bao la rộng lớn ấy, đâu phải nói tìm là tìm được ngay. Ông đã lăn lội qua rất nhiều quê xứ, nhưng vẫn chẳng có tung tích gì của Cải. Lần ấy, ông đã xin vào làm chân sai vặt cho đoàn nghệ thuật, với mong muốn trước mỗi lần đoàn diễn, ông sẽ mượn micaro và nói: “Cải ơi, ba là Năm Nhỏ nè con….” Chỉ một câu nói ấy thôi, đã khiến cho bao độc giả đọc tới đây không kìm được nỗi xúc động, tuy Cải chẳng phải là con ruột ông, nhưng qua bao ngày tháng chung sống, ông đã sớm coi nó là con của mình. Một người cha già, lặn lội vất vả trên mọi mảnh đất, chỉ mong sao tìm được đứa con yêu quý của mình.
Và sau khi biết Diễm Hương lên ti vi để tìm cha mẹ của mình, ông Năm Nhỏ đã “Lặng người đi, tự hỏi, bây giờ ông lên ti vi, con Cải có nhận ra ông không”. Ông vẫn còn nhớ như in những kỉ niệm mà ông dắt cái Cải đi hái xoài chín, chặt chuối làm bè dạy nó lội, rồi còn cùng nó trăn trâu, chơi thả diều, mỗi lần nó ốm là lại cõng nó đi khám. Ông Năm Nhỏ già như vậy mà còn nhớ, huống chi là cái Cải: “Ông nhớ mồn một thì nhỏ Cải chưa chắc đã quên”. Vả lại, đăng tin lên truyền hình cũng tốn kém lắm, song lần nào phỏng vấn người ta cũng bắt ông đọc theo kịch bản, ông không chịu thì người ta bảo: “Trên đài chứ có phải chợ trời đâu mà muốn nói gì cũng được”. Ông giận quá, bỏ về ngay, chỉ đành nghĩ cách khác. Có hôm, thấy người ta đang làm phim về việc lần chiếm lòng đường, ai ai cũng tá hỏa sợ bỏ chạy đi hết, chỉ có riền mình ông hớn hở chạy đến chỗ máy quay mà “ Mấp máy câu “Cải ơi…””. Ấy vậy mà lúc chương trình được phát sóng, người ta lại cắt đoạn đấy của ông đi. Ông rầu lắm, chẳng biết cách nào có thể lên ti vi mà tìm con gái. Không lâu sau, ông Năm Nhỏ đã đi trộm trâu rồi đem ra chợ bán. Đây chính là kế sách mà ông nghĩ ra. Đúng như dự đoán, ông đã bị bắt và còn bị đưa lên đồn, trong lúc đi, ông còn không quên nhắc người ta nhớ mời phóng viên xuống phỏng vấn ông và đăng bài cho bà con cùng đề phòng những kẻ trộm. Và thật may, đài trên tỉnh đã cử người xuống, có nhà báo còn viết sẵn tít “Kẻ trộm đãng trí”. Sau khi đã phỏng vấn tất cả những người có liên qua, ông Năm Nhỏ đã xin được ghi hình để nhắn nhủ vài lời: “Cải ơi, ba là Năm Nhỏ nè, nhà mình ở Cỏ Cháy đó, nhớ không? Về nhà đi con, tội má con vò võ có một mình. Con là trọng chớ đôi trâu có nhằm nhò gì… Về nghe con, ơi Cải…”. Đó là một cuộc tìm kiếm lại niềm hạnh phúc, ông già Năm Nhỏ tìm kiếm đứa con trong vô vọng, và nỗi xót xa ấy đã lắng lại trong lòng người đọc một nỗi buồn man mác, mơ hồ về kiếp nhân sinh: “Nghe đâu hôm đó đài truyền hình có đưa tin nhưng chỉ thấy ông già nhép miệng nói một cách tuyệt vọng”.
Giọng văn của của tác giả mang đậm bản sắc của vùng Miền Tây sông nước. Và trong rất nhiều những câu chuyện về miền cù lao chăm, miền sông nước, vùng biển rộng lớn, mênh mông, với những con người cần cù chịu khó, sáng tối lắm làm, hay những mảnh đời khó khăn bất hạnh…đều được nhà văn khắn học rất chân thực qua từng câu văn. Qua đó Nguyễn Ngọc Tư đã thành công để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc cùng nỗi niềm cảm xúc thật sâu lắng khi đọc tác phẩm Cải ơi.
Nghị luận Cải ơi (mẫu 2)
Khi bàn về “Nỗi sợ đối với nhà văn”, Nguyễn Ngọc Tư đã bộc bạch: “Riêng tôi tin vào duyên…Không phải cứ tích lũy mày mò tháng ngày mà thành, văn chương không tùy thuộc vào sự thuần thục, cũng như ta biết không phải viết nhiều, đều đặn thì là nhà văn”. Đúng vậy,giữa tác phẩm văn học với người đọc bao giờ cũng tồn tại thứ duyên ngầm khó ước đoán, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của nhà văn. “Cải ơi” chính là một tác phẩm có cái duyên ngầm ấy. Vẫn lối viết giản dị, chân xác, bộc trực của con người phương Nam, Nguyễn Ngọc Tư đã đem đến cho người đọc những day dứt khôn nguôi về số phận của những con người lưu lạc.
Truyện ngắn “Cải ơi!” còn có tên là “Ơi Cải về đâu”, nằm trong tập truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” sáng tác năm 2005. Tác phẩm kể về cuộc hành trình tìm con ròng rã của ông Năm Nhỏ. Cải – đứa con riêng của vợ với người chồng cũ, bỏ nhà ra đi vì làm mất cặp trâu, sợ bị đòn. Từ ngày ấy, cuộc sống của ông Năm gặp vô vàn bất hạnh. Ông hứng chịu sự dòm ngó và khinh miệt từ làng xóm cùng sự lạnh lùng, hắt hủi từ người vợ. Ông quyết định rời quê hương, ra đi tìm con. Theo chân chuyến hành trình khắc khoải của người cha ấy, ta còn bắt gặp những con người có thân phận lưu lạc khác như Thàn, Diễm Thương.
Tác phẩm có thể được chia thành bốn phần. Trong đó, phần một kéo dài từ đầu cho đến “tìm được con Cải về”, phần hai từ tiếp theo cho đến “rủ đi ăn hủ tiếu”. Phần ba nối tiếp cho đến “Chết lặng” và phần bốn là toàn bộ nội dung còn lại. Nhan đề tác phẩm, bao gồm cả nhan đề cũ và mới đều bao gồm tiếng “Ơi” như một lời gọi. “Cải ơi” là tiếng gọi vừa yêu thương, nhung nhớ cũng vừa đau đớn, vô vọng của ông Năm Nhỏ suốt mười hai năm trời ròng rã tìm con. Nhan đề ấy đã góp phần thể hiện sâu sắc nội dung tư tưởng của tác phẩm.
Mở đầu tác phẩm là hoàn cảnh éo le “Đoàn ca múa nhạc giải tán, thằng Quách Phú Thàn dẫn ông già Năm Nhỏ về ngã ba Sương, Thàn có nhỏ bồ mới quen bán quán ở đó. Con nhỏ tên Diễm Thương”. Các nhân vật hiện lên trong hoàn cảnh khá đặc biệt. Người đọc sẽ tự hỏi tại sao một ông già lại cùng tham gia vào đoàn ca múa nhạc với một chàng trai trẻ? Điều gì đã khiến Thàn quyết định dẫn theo ông Năm Nhỏ về ngã ba Sương? Dường như, cuộc đời của mỗi con người đều chứa đựng nhiều uẩn khúc và những câu chuyện khuất lấp đó, nay lại tiếp tục ở nơi ở mới này. Nguyễn Ngọc Tư luôn đặt cho nhân vật những cái tên giản dị, đậm màu sắc Tây Nam Bộ. Sáu Đèo, Út Vũ, Dậu, Sáo, Năm Nhỏ – tất cả đều là những cái tên gợi lên số phận đáng thương, nhỏ nhoi, cơ cực. Nhân vật Thàn có cái tên đặc biệt, gần giống với tài tử Hong Kong mà khuyết mất một chữ “h”, dường như đây là dấu hiệu cho thấy Thàn có một niềm đam mê nghệ thuật mãnh liệt nhưng vì “thiếu” chút gì đó mà không thể thành danh. Sau này, chính Thàn cũng ngậm ngùi số phận “lẹt đẹt bên hông Chợ Lớn” của mình. Diễm Thương thì khác, cô có cái tên thật đẹp, vừa yêu kiều lại vừa trìu mến. Thế nhưng, trái ngược với cái tên, Diễm Thương lại có khuôn mặt “không đẹp nhưng bình thản, lạnh trơ, không ra vui, buồn, đố ai biết nó nghĩ gì, mái tóc nhuộm vàng hoe chơm chởm như rễ tre”. Tên các địa danh như làng Cỏ Cháy, ngã ba Sương gợi liên tưởng đến những miền quê quanh năm nắng cháy, những con phố mịt mờ như vô định không biết đâu là điểm dừng.
Ba con người, ba mảnh đời héo hon ấy đã gặp gỡ, cùng nhau trải qua những tháng ngày mưu sinh và cũng là mưu cầu hạnh phúc. Cuộc đời và chính con người họ, không ai là “lành lặn”. Với lối kể giản dị, ngôi kể thứ ba cùng hệ thống điểm nhìn thay đổi linh hoạt, Nguyễn Ngọc Tư đã diễn tả những đau đớn tột cùng, những những khát khao bình dị của những con người nhỏ bé.
Nhân vật chính trong truyện là ông Năm Nhỏ. Ông có tình yêu thương con vô bờ, tấm lòng nhân hậu hết mực,lòng tự trọng đáng quý và số phận bất hạnh, phải lưu lạc suốt mười hai năm. Để làm nổi bật những đặc điểm ấy ở ông Năm, tác giả đã đảo lộn trật tự các sự kiện trong truyện kể, lồng ghép giữa quá khứ và hiện tại, Ngay ở phần đầu là khung cảnh ông Năm sống với Thàn và Diễm Thương. Tối hôm ấy, Thàn đi chơi về, thấy ông Năm vẫn ngồi khọm rọm ngoài vách mùng hút thuốc. Thàn hồn nhiên nghĩ rằng ông Năm nhớ đoàn quá nên ngủ không được. Ông già lắc đầu, thở dài, cái tiếng thở dài “nghe buồn xa xắc như lá rụng hoa rơi”. Hóa ra, ông bần thần vì không biết làm thế nào để tìm ra con Cải. Quá khứ của ông lúc này hiện về trong dòng hồi tưởng. “Lúc Cải mười ba tuổi, một bữa mê chơi làm mất đôi trâu, sợ đòn, nó trốn nhà. Cả nhà tong tả đi tìm nhưng mãi con nhỏ không quay lại”. Ngày Cải đi, vợ ông ôm cái áo con Cải khóc, bà cho rằng ông ngược đãi, hà khắc với nó vì Cải là con với chồng trước. Ngày ngày, bà nhìn ông bằng con mắt chứa đầy hoài nghi, thù ghét. Không chỉ gia đình mà bà con làng xóm cũng quay lưng với ông. Người ta xầm xì, chỉ trỏ. Có ai quan tâm đến thực hư con nhỏ đã đi đâu hay đồng cảm với nỗi đau đứt ruột của người cha? Thói đời là thế, người ta nhảy bổ vào xâu xé kẻ “có tội” như con thiêu thân lao đến ánh đèn. Để thỏa mãn sự hiếu kì nhân danh lòng đức độ, có người còn dập dìu thuê đò dọc lại nhà ngó nghiêng. Cũng có người “thẳng thắn”, “thông minh” hơn, biết tận dụng vụ việc mà bưng bánh dừa, trà đá đến bán. Thậm chí, có kẻ giàu tưởng tượng và giàu luôn cả sự nhẫn tâm còn đồn đãi ông giết con nhỏ rồi lấp ở một chỗ đất nào. Người kể chuyện thể hiện thái độ thương xót, đồng cảm với ông Năm trước tình cảnh đau đớn, để ông bộc lộ cảm xúc của mình: “Ông đau mà không nói được một lời, ông đã nâng niu nó khi mới thôi nôi, đã vui khi có người bảo con nhỏ giống ông in hệt (dù biết họ khen khơi khơi, khen bổng trên trời)”. Khi con Cải đi rồi, ông đã ứa nước mắt khi đi qua chiếc giường trước kia nó ngủ. Có bữa, ông hì hụi ém mùng như thể Cải vẫn còn ở nhà. Mất con, người cha hành động như một kẻ mất hồn. Lúc nào lòng ông cũng đau đáu vì nhớ con, lo lắng con lưu lạc nay đây mai đó, không biết sống chết ra sao. Những câu: “Như thế mà ông không thương nó sao ? Như thế mà là không thương à?” như lời tự giãi bày, thanh minh của ông Năm Nhỏ. Ông nói với chính mình, nói với những người nghi oan cho ông và hơn hết, ông cũng muốn nhắn nhủ với Cải rằng ba nó thương nó lắm, hãy về nhà với ba má nó đi. Vì thế, ông quyết định khăn gói bỏ xứ ra đi, “bụng dạ đinh ninh dứt khoát tìm được con Cải về”. Ông Năm không chỉ là một người cha yêu thương con hết mực mà còn rất giàu lòng tự trọng. Đọc những sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, không hiếm khi ta bắt gặp kiểu nhân vật lưu lạc như thế này. Ông Năm tha hương không phải vì mưu sinh mà như một sự tự lưu đày, trốn chạy và quên đi niềm đau dù nỗi đau ấy chẳng lúc nào nguôi ngoai.
Dòng hồi tưởng cứ thế tiếp tục. Sau những tháng ngày lênh đênh, ông xin làm sai vặt trong đoàn ca múa nhạc. Ông chọn công việc ấy bởi lí do hết sức đáng thương. Ông thường mượn cái micro nói vài câu trước giờ diễn: “Cải ơi, ba là Năm Nhỏ nè con…”, hi vọng đứa con bé bỏng của ông có thể xuất hiện trong đám khách hoặc nếu có người biết tin thì báo cho ông. Người làm cha chẳng từ bỏ một chút hi vọng nào, dù là nhỏ nhoi nhất, để tìm lại được con. Về sau, ông còn dồn hết tiền mua một cái nhà lụp xụp và xe kẹo kéo. Xe kẹo kéo có mục “nhắn tìm con” của ông nổi tiếng khắp các chợ cá, quán nhậu, ngã ba. Sự nỗ lực, kiên trì, tình yêu thương của ông thật đáng khâm phục. Ròng rã suốt chừng ấy thời gian, người cha này chưa lúc nào nguôi ngoai đi tội lỗi và niềm đau mất con. Sự trở về của Cải là điều duy nhất có khả năng giải thoát ông khỏi sự dày vò. Lạc lõng, nổi trôi thì đớn đau, khổ sở vô cùng nhưng nếu ông không đi khỏi Cỏ Cháy, chính niềm ân hận, tuyệt vọng cùng thái độ của những người xung quanh sẽ giết chết ông. “tiếng “Cải ơi !!!…” nghe ngắc ngoải như tiếng chim kêu giữa lưng trời”. Ông Năm chính là một cánh chim cô đơn đến tội nghiệp!
Sau khi hé lộ quá khứ của ông Năm và nguyên do khiến ông trụ lại ngã ba Sương, người kể chuyện lại quay trở về thực tại, tiếp tục hành trình tìm con của nhân vật này. Cải, đối với ông, trở thành niềm hạnh phúc xa xăm trong quá khứ, sự khao khát tuyệt vọng của hiện tại. Ông níu lấy những hi vọng mong manh về con bé như một người sắp rơi xuống vực tìm kiếm sợi dây. Chìm trong nỗi đau quá lâu, ông Năm như mất trí. Có lẽ, chỉ những người xung quanh là thảng hoặc nhận ra điều ấy. Diễm Thương đã lợi dụng sự “thèm” con của ông Năm để lấy tiền cá cược. Giây phút nghe thấy con nhỏ thảng thốt gọi “Ba !”, ông “đứng im sững, ngơ ngác giây lát”. Niềm hạnh phúc ập đến quá nhanh khiến đôi môi ông runrun, lập bập hỏi: “Cải phải hôn con?”. Nguyễn Ngọc Tư vẫn giữ nguyên những từ ngữ địa phương để diễn tả chân xác từng sắc thái cảm xúc của nhân vật. Người kể chuyện chú ý đến từng cử chỉ, biểu cảm của ông Năm: “Ông già nắn đầu, nắn vai nó với một nỗi vui chảy tràn, trời đất, ba nhìn không ra, bây lớn dữ dằn vầy”, “Ông đi vài bước, ông day lại nhìn Diễm Thương (cho chắc là nó đang đứng đây, và có thiệt trên đời), ngước về phía trời sao, rồi ngó thằng Thàn, ông cười, để miệng muốn méo sao thì méo, “Tía kiếm có con Cải rồi, dễ ợt hà mầy ơi”. Những suy nghĩ thầm kín, khát khao bên trong của nhân vật cũng được người kể chuyện phơi bày: “Nghe giọng là cuộc hành trình ròng rãi mười hai năm của ông (và những oan khuất, buồn đau ) khép lại ở đây rồi. Ngày mai ông dẫn Diễm Thương về Cỏ Cháy, ngay trên chuyến tàu đầu. Chắc vợ ông ra cửa che tay khum khum trên trán, hỏi ai vậy cà, ông sẽ nói con Cải chớ ai, bà sẽ mừng hết lớn, phải còn trẻ thể nào bà cũng nhảy cà tưng. Ông sẽ đưa nó đi dài xóm, khoe “Con Cải tui về đây nè, bà con coi, nó lớn quá chừng hen”, vẻ mặt không giấu được hả hê (vậy mà mấy người nói tui giết nó)”. Vẫn là ngôi kể thứ ba nhưng điểm nhìn đôi khi được thay đổi linh hoạt để nhân vật bày tỏ tâm trạng một cách chân thực. Và thế là, giọt nước mắt của ông lăn dài trên má. Nguyễn Ngọc Tư từng chia sẻ: “Tôi nghĩ, nếu vẽ một biểu tượng của nghề viết mà tôi đang đeo đuổi, tôi sẽ vẽ hình ảnh của giọt nước mắt, hay gần giống như thế… Khi viết về thân phận, nỗi đau, sự bối rối thường trực của con người trước những biến cố của cuộc đời, tôi luôn ao ước những trang viết của mình có được sự rung cảm như những giọt nước mắt”. Ở đây, giọt nước mắt của ông Năm đã cho thấy niềm hạnh phúc đến nghẹn ngào, vỡ bung ra bởi bị kìm nén quá lâu. Giọt nước mắt đã gom hết biết bao tình cảm, nỗi đau, sự rối bời từ quá khứ đến hiện tại. Ông gặp nhỏ Diễm Thương hằng ngày kia mà? Cớ nào lại không biết mặt nhỏ? Có lẽ, chỉ cần nghe thấy tiếng “Ba!” là tâm trí ông bị lu mờ, chỉ còn biết nghĩ đến viễn cảnh đưa con về Cỏ Cháy.
Chi tiết ông muốn lên tivi để con thấy mình đã chứng tỏ ông Năm không ngại làm bất cứ việc gì để tìm con. Trật tự kể chuyện lại được đan xen giữa quá khứ và hiện tại để làm nổi bật tình yêu con. Ông già lặng người đi, hồi tưởng lại những kỉ niệm dắt Cải đi hái xoài chín trong vườn hoang,chặt chuối làm bè dạy cho nó lội, thả trâu, chơi diều rồi cõng nó đi tắt mấy vạt đồng đến chỗ ông bác sỹ già. Ông nhớ từ cây kẹp nhỏ, mớ dây thun khoanh, đến mấy cục kẹo dừa. Ông tự nhủ: “Tất cả những thứ đó, ông nhớ mồn một thì nhỏ Cải chắc chưa quên”. Thậm chí, có lần ông đậu xe kẹo đầu chợ, thấy người ta làm phim, ông còn sướng rơn lăng xăng chạy lại ló mặt vào mấp máy câu “Cải ơi…”. Vẫn là hai tiếng “Cải ơi…” ấy, ông đã gọi không biết bao nhiêu lần trong suốt mười hai năm lưu lạc mà vẫn chẳng có một tin tức gì.
Không chỉ hết lòng vì con gái, ông Năm Nhỏ còn là một người giàu lòng nhân hậu, đức hi sinh, biết yêu thương. Những tháng ngày sống ở căn nhà lụp xụp, kéo xe kẹo kéo đi khăp nơi, giữa ông và Thàn đã nảy sinh tình cảm nồng ấm như tình cha con ruột thịt. Họ đồng cảm, bảo bọc, chở che nhau. Thàn gọi ông Năm là “tía”, tối tối chui vào giường ông ngủ và ôm ông như ôm lấy người cha. Ông Năm cũng dành cho Thàn và Diễm Thương sự bao dung vô bờ. Ông chẳng trách cứ, mắng mỏ trò đùa ác ý của Diễm Thương. Thậm chí khi biết tin Thàn sẽ dẫn Diễm Thương về quê, ông còn muốn làm đại diện họ nhà gái. Có lẽ, thấm thía nỗi đau của những người không nhà, không có nơi để về nên ông Năm đã thương cảm cho Thàn, Diễm Thương và coi họ như những đứa con của mình. Ông vẫn vui cho niềm vui của đôi trẻ mà không để nỗi đau của mình ảnh hưởng đến những người xung quanh.
Với tất cả những điều trên, người đọc luôn hi vọng ông Năm Nhỏ sẽ tìm lại được đứa con của mình, chấm dứt chuỗi ngày tha hương. Thế nhưng, câu chuyện lại có một cái kết vô cùng ám ảnh. Ông quyết định trở thành một tên trộm, mà ông lại trộm đôi trâu – thứ mà con gái ông đã làm mất. Dường như ông muốn chứng minh cho Cải thấy rằng đôi trâu ấy chẳng sá gì đâu! Khi bị đưa lên xã, ông chỉ chực chờ có đài truyền hình xuống quay hình “để dân người ta cảnh giác”. Người ta gọi ông là “Đạo tặc đãng trí”, nhiệt tình phỏng vấn các bên đương sự. Chỉ duy có câu nói của ông: “Cải ơi, ba là Năm Nhỏ nè, nhà mình ở Cỏ Cháy đó, nhớ không ? Về nhà đi con, tội má con vò võ có một mình. Con là trọng, chứ đôi trâu cộ nhằm nhò gì… Về nghen con, ơi Cải…” là bị cắt bỏ. Câu chuyện lưng chừng ở đó, liệu ông Năm có tìm được Cải hay tiếng gọi ấy vẫn lại vang vọng hoài trên ngã ba Sương (hay một con đường nào khác)?
Ngoài ông Năm Nhỏ thì Thàn và Diễm Thương cũng là những thân phận lưu lạc, bơ vơ đến đáng thương nhưng mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp. Thàn là một chàng trai có ước mơ, có đam mê và quyết sống trọn với đam mê ấy. Anh từng hi vọng sẽ trở thành ca sĩ nổi tiếng để khiến cha tự hào. Thàn cũng dành cho Diễm Thương một tình yêu chân thành, sự trân trọng và cảm thông đặc biệt. Dù tính tình Diễm Thương lạnh lùng, không cảm xúc, vì mưu sinh và những tổn thương quá khứ mà trở nên gai góc nhưng Thàn vẫn thương cô thật lòng. Với ông Năm Nhỏ, Thàn coi ông như người cha. Ngày đoàn hát giải tán, Thàn dẫn theo ông về chỗ Diễm Thương. Khi Diễm Thương lấy nỗi đau của ông Năm để cá cược, “Thàn ứa lòng nhìn ông Năm già đi khủng khiếp nó giận muốn bóp cổ nhận nước Diễm Thương cho rồi, khi con nhỏ nhơn nhơn trở qua, giơ nắm tiền, rủ đi ăn hủ tiếu”. Cuối cùng, Diễm Thương không phải là nhân vật chính, hiện lên với những lời thoại thô lỗ, cộc cằn nhưng cũng để lại trong lòng người đọc những trăn trở. Vẻ ngoài lạnh lùng của cô được tạo nên bởi tuổi thơ cơ cực. Thái độ gay gắt, có phần khó ưa của Diễm Thương khi thấy ông Năm tìm con xuất phát từ sự tủi thân. Không giống như ông Năm, Diễm Thương không khóc mà chua xót nói: “Sao tui thù con nhỏ đó quá trời, có nhà mà bỏ, có cha có mẹ mà không thèm… Cái thứ người đó, cho nó chết bờ chết bụi cũng đáng”, “Còn tui, người ta đã quăng ở đây mười tám năm, tui chờ hoài mà có ai tìm đâu…” Cô cũng “lên tivi” như ông Năm để ba mẹ thấy mình. Nhưng định kiến, sự cô đơn đã vùi dập cô gái ấy quá nhiều, dường như cô quá quen chăng? Ngày bị gia đình Thàn phản đối, cô chỉ chào rồi bỏ về. Ẩn sau sự lạnh lùng, không ai hay biết cô đang nghĩ gì là một trái tim khao khát yêu thương đến vô cùng. Với các nhân vật phụ, tác giả cũng sử dụng lối kể chuyện đan xen giữa quá khứ và hiện tại khi hồi tưởng lại những ngày Thàn ở nhà với người cha ruột, kết hợp nhuần nhuyễn giữa lời của nhân vật với lời người kể chuyện và khắc họa tâm lí nhân vật sâu sắc thông qua lời nói, cử chỉ, suy nghĩ.
Nhà văn đã sắp xếp trật tự sự kiện trong truyện đan xen giữa quá khứ và hiện tại, ngôi kể thứ ba – người kể chuyện toàn tri cùng hệ thống điểm nhìn linh hoạt, sự hòa quyện giữa lời người kể và lời nhân vật để miêu tả chính xác, khách quan diễn biến hành động và nội tâm của từng nhân vật. Từ đó, truyện khắc họa sâu sắc số phận cô đơn, nhỏ bé, đáng thương của những con người phải lưu lạc và bày tỏ niềm đồng cảm, trân trọng trước những vẻ đẹp tâm hồn của họ. Hơn hết, tác phẩm còn đề ra cho ta một day dứt, trăn trở về cách đối nhân xử thế, về lòng bao dung trong cuộc đời.
Với “Cánh đồng bất tận”, Nguyễn Ngọc Tư thực sự “không còn là cô gái Việt Nam viết về Việt Nam, mà là một nhà văn viết về thân phận con người”.
Nghị luận Cải ơi (mẫu 3)
Trong tác phẩm Cải ơi của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta được đưa vào một thế giới đau buồn và đầy lòng nhân ái, nơi những con người lưu lạc tìm kiếm sự thương yêu và ý nghĩa cuộc sống. Tác phẩm này được viết bởi một trong những nhà văn nữ tiêu biểu của văn học đương đại – Nguyễn Ngọc Tư, nữ thi hào sinh năm 1976 ở Cà Mau. Với việc sử dụng truyện ngắn, tiểu thuyết và tản văn, tác giả đã tạo ra một tập truyện đa dạng, trong đó Cải ơi được coi là một trong những câu chuyện nổi tiếng nhất.
Qua câu chuyện, người đọc thấy nhân vật chính là ông Năm Nhỏ, một người nông dân xuất thân từ làng Cỏ Cháy. Số phận của ông được quyết định bởi việc mất con Cải. Ông đã dành cả cuộc đời để tìm kiếm con, đi qua những khó khăn và nghèo khổ. Ông có tình yêu thương vô hạn dành cho con và không từ bỏ bất kỳ cơ hội nào để tìm kiếm con. Ông cũng có lòng bao dung, sự vị tha và thương yêu những người đồng cảnh ngộ. Trong truyện “Cải ơi”, tác giả đã sử dụng trật tự kể chuyện đan xen giữa quá khứ và hiện tại để làm nổi bật tình yêu của ông Năm đối với con. Có một chi tiết đặc biệt là ông Năm muốn lên truyền hình để con thấy mình đã chứng tỏ ông không ngại làm bất cứ việc gì để tìm con. Điều này thể hiện rõ mong muốn và quyết tâm của ông trong việc tìm kiếm con yêu.
Trong những khoảnh khắc lặng người, ông Năm hồi tưởng lại những kỷ niệm đáng yêu khi còn có Cải bên cạnh. Ông nhớ từ những kỷ niệm nhỏ như dắt Cải đi hái xoài chín trong vườn hoang, chặt chuối làm bè và dạy cho nó lội, thả trâu, chơi diều cho Cải. Những hình ảnh này thể hiện tình yêu và sự quan tâm của ông đối với con trước khi họ bị chia cắt. Có một lần ông Năm đậu xe kẹo đầu chợ và thấy người ta đang quay phim, ông còn rất vui mừng và sẵn sàng chạy lại để xuất hiện trước ống kính và gọi “Cải ơi…”. Đó vẫn là hai tiếng “Cải ơi…” ấy, ông đã gọi không biết bao nhiêu lần trong suốt mười hai năm lưu lạc mà vẫn chẳng có một tin tức gì về con. Sự sẵn lòng và sự kiên nhẫn của ông Năm trong việc tìm kiếm con đáng được ngưỡng mộ.
Nhân vật Thàn, một người có ước mơ và hoài bão, đồng cảm với ông Năm và có tình yêu chân thành với Diễm Thương. Cuộc sống của Thàn trở nên lưu lạc vì không thể thực hiện được ước mơ của mình. Nhân vật Diễm Thương, một nhân vật khác trong truyện, có một quá khứ đau buồn khi bị cha mẹ bỏ rơi. Cô có ngoại hình và tính cách lạnh lùng, vô cảm. Tuy nhiên, cô khao khát được yêu thương và có một cuộc sống đáng sống. Ông Năm cũng dành cho Thàn và Diễm Thương sự bao dung vô bờ. Ông không trách cứ hay mắng mỏ trò đùa ác ý của Diễm Thương. Thậm chí khi biết rằng Thàn sẽ dẫn Diễm Thương về quê, ông còn muốn đại diện cho họ như một người cha. Điều này cho thấy ông Năm đã thấu hiểu nỗi đau của những người không có gia đình, không có nơi để trở về. Mỗi nhân vật đều được tác giả xây dựng cụ thể và điểm nhìn linh hoạt cho phép lời người kể và lời nhân vật hòa quyện với nhau. Tác giả cũng xây dựng và miêu tả tâm lý nhân vật một cách tinh tế. Ngôn ngữ trong tác phẩm mang chất khẩu ngữ miền Nam, tạo nên sự chân thực và chặt chẽ với ngữ cảnh của câu chuyện.
Tình yêu và lòng nhân hậu của ông Năm Nhỏ không chỉ dành riêng cho con gái mình, mà còn lan tỏa đến những người xung quanh. Qua những câu chuyện và nhân vật trong tác phẩm Cải ơi, chúng ta được mở mang tầm nhìn và suy ngẫm về cuộc sống và con người.
Video bài giảng Văn 11 Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện – Kết nối tri thức